Hội Chứng Tôm Chế Sớm EMS

Thảo luận trong 'Thủy hải sản' bắt đầu bởi khongtenstudio, 20 Tháng 6 2012.

  1. (Lượt xem: 2,032)

    Hội chứng tôm chết sớm EMS
    Nguồn tin: ATC VietNam, 24/02/2012
    Ngày cập nhật: 25/5/2012

    Một số chia sẻ thêm về Hội chứng tôm chết sớm Early Mortality Syndrome (EMS) ở tạp chí thủy sản Châu Á Thái Bình Dương.
    [IMG]
    Hình 1: Tôm chết sau 1 tháng nuôi
    [IMG]
    Hình 2: Tôm sắp chết vì nhiễm EMS
    Chưa gọi là bệnh mà là hội chứng vì nó tập hợp các dấu hiệu và triệu chứng thường xuyên xuất hiện mà chưa biết nguyên nhân làm cho tôm chết rất nhanh sau khi thả.
    Ở các nước có báo cáo về hội chứng này đều cho thấy gan tụy sẫm màu, kích thước to lên chuyển sang tái xanh và co lại. Một số khác thì gan tụy trong nhìn thấy cả mô, tương tự như màu gelatin có dịch. Tỉ lệ chết xảy ra liên tục ở giai đoạn này, gan tụy bị hủy hoại mất hình dạng, đổi màu và ít giọt lipid. Khi soi mẫu thì lấy quần thể lớn vi khuẩn Vibrio spp. như là V.vulnificus và V.parahaemolyticus. Một số tôm chết mang bị đen. Các báo cáo ghi nhận tỉ lệ chết xảy ra ở giai đoạn 15 – 25 ngày và kích cỡ 1,5 – 2 g.
    Ở Trung Quốc, ở thời điểm hội chứng này xảy ra những người nuôi tôm đã hỏi nhau “Vụ này anh đã thả mấy lần rồi?”. Hiện nay họ đã phải thả từ 5 đến hơn ngoài 7 lần. Hội chứng này tác động đến cả tôm sú lẫn tôm thẻ chân trắng. Năm 2011, hội chứng này trầm trọng hơn đặc biệt ở các khu vực nuôi cũ có lịch sử nuôi hơn 5 năm và các vùng gần biển hơn có độ mặn cao 20 – 35 ppt. Các vùng nuôi tôm ở Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây thiệt hại gần 80% trong nửa đầu năm 2011, vụ thứ hai giảm xuống 60%. Gần một nửa tôm thẻ ở Trung Quốc nuôi ở nước ngọt và những trang trại ở khu vực này khá ổn định. Giá tôm tăng do nguồn cung ít hơn.
    Ở ĐBSCL, hội chứng này đã gây thiệt hại lớn trên tôm sú, nặng nề hơn tôm thẻ. Ở một số trang trại tỉ lệ chết lên đến 100%. Các trang trại nuôi thành công là do chú trọng chọn giống chất lượng, ao chuẩn bị tốt, thực hiện tốt chương trình quản lý thức ăn và an toàn sinh học, hệ thống quạt nước tốt đủ công suất, hệ thống tuần hoàn nước tốt có xử lý qua ao lắng, ao sử dụng tấm lót mới hoặc được sửa chữa.
    Tình trạng ở bán đảo Malaysia đã cho thấy tỉ lệ chết cao vào khoảng 70% ở bờ biển phía đông và 40% ở bờ tây. Tôm nuôi ở độ mặn cao bị thiệt hại nhanh hơn ở độ mặn thấp. Theo lời người quản lý ở một trại nuôi Malaysia không bị hội chứng này cho biết là do thả tôm giống chất lượng cao và được kiểm tra qua mọi test bắt buộc và trên hết là không nhiễm khuẩn.
    [IMG]
    Hình 3: Tôm nhiễm EMS cho thấy gan tụy tái xanh
    Hội chứng này cũng có xảy ra ở Thái Lan, kiểm tra khay thức ăn ở giai đoạn nuôi 25 – 40 ngày, tôm đạt trọng lượng gần 10 g với tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Hai tuần sau, nước chuyển đậm màu, phát hiện một số tôm chết và ở thời điểm thu hoạch. Khi đó tỉ lệ chuyển đổi thức ăn FCR là trên 2,5 và tỉ lệ sống là 40%. Cho đến nay chưa có phương pháp chữa trị. Tình trạng không nặng nề như các nước khác, có thể là nhờ hệ thống nuôi của Thái Lan sử dụng hệ thống sục khí/quạt nước cao và cho ăn tự động có thể điều hòa cho ăn giúp cải thiện tình trạng ao. Thông thường tôm ít bị stress nếu mức oxy hòa tan cao và ít ô nhiễm, hệ miễn dịch hoạt động tốt hơn.
    Một số đề xuất với người nuôi là nên chọn giống tối thiểu ở giai đoạn PL10 đã qua kiểm tra các test cần thiết, đặc biệt về virus, vi khuẩn và nấm, không nhiễm vibriosis. Trong giai đoạn thả giống cần giữ thông số nước như nhau giữa nước ao nuôi và nước trong bao đựng giống: khác biệt về pH nên thấp hơn 0,5, nhiệt độ thấp hơn 1 độ C, độ mặn thấp hơn 2 ppt. Một số lưu ý nữa là tránh ngày gió, lạnh, nóng hoặc mưa, chạy xục khí liên tục trong vòng 10 tiếng trước khi thả và không nên khuấy đảo ở đáy ao trong khi đang thả, cần thiết thì bổ sung thêm khoáng hoặc muối. Kiểm tra vi khuẩn Vibrio mỗi 2 – 3 ngày, theo dõi kỹ tình trạng yếm khí ở đáy ao. Một nghiên cứu cách đây 7 năm thì nếu mức vibrio ở khoảng từ 3.000 – 4.000 CFU/ml sẽ gây viêm nhiễm ở tôm sú và 10.000 CFU/ml ở tôm thẻ. Năm 2010, một số phòng thí nghiệm đã báo cáo mức 5.000 CFU/ml gây nhiễm trên tôm thẻ.
    [IMG]
    Hình 4: Ở Việt Nam, người dân đào hố chôn tôm chết
    [IMG]
    Hình 5 : Trang trại nuôi tôm không nhiễm EMS ở Malaysia.
    [IMG]
    Hình 6: Ở Trung Quốc, người dân sẽ phơi tôm chết trên bờ ao
    Thực hiện tốt các biện pháp quản lý thức ăn, thả khoảng 80% so với vụ trước và tránh thả khi thời tiết khắc nghiệt như là gió mùa. Kiểm soát vi khuẩn gây bệnh có thể nhờ sử dụng các loài vi khuẩn có ích giúp tiêu hóa chất thải và cạnh tranh hoặc ngăn chặn vi khuẩn có hại. Luôn luôn quạt nước/xục khí đầy đủ ổn định oxy ở mức chuẩn 5 mg/l, đảm bảo các điều kiện của đáy và nước ao tối ưu nhất. Một trong những người thầy của tác giả bài viết này cảnh báo “Trong tương lai, vi khuẩn sẽ có thể trở nên đáng sợ hơn cả dịch virus trong nuôi tôm. Mọi vấn đề có thể ngoài tầm kiểm soát trừ khi chúng ta có thể kiểm soát được sự tham lam của chúng ta”. Đây là thời điểm để tất cả chúng ta phải lưu tâm đến hệ thống môi trường cần có cho nuôi tôm và có cái nhìn dài hạn hơn để chúng ta có thể tồn tại và tiếp tục nuôi.

    Một nghiên cứu của Tiến sĩ Donald V. Lightner
    OIE Reference Laboratory Phòng Thí nghiệm các bệnh của tôm
    Khoa Khoa học Thú y và Vi sinh học, Đại học Bang Arizona, Mỹ
    Tóm tắt
    Hội chứng tôm chết sớm - Early Mortality Syndrome (EMS) là một dạng bệnh mới của tôm đã được phát hiện ở các trang trại nuôi tôm ở Châu Á. Bệnh xuất hiện trong vòng 30 ngày sau khi thả và gây ra các triệu chứng như lờ đờ, vỏ mềm sậm lại và đầu ngực bị đốm vằn. Các tác động sinh lý học của bệnh EMS xuất hiện giới hạn ở gan tụy. Ở giai đoạn cuối của bệnh gây chết cao, sự nhiễm khuẩn phái sinh tiếp tục gây tổn thương gan tụy.
    Một bệnh mới đã xuất hiện ở các trang trại tôm nằm ở phía nam Trung Quốc và đảo Hải Nam vào năm 2010. Đầu năm 2011, Hội chứng tôm chết sớm (EMS) cũng đã được phát hiện tại Việt Nam và Malaysia. Bệnh xuất hiện trong vòng 20 đến 30 ngày sau khi thả giống. Cả hai loại tôm: Tôm sú P. monodon và tôm thẻ chân trắng L. vannamei đều bị ảnh hưởng bệnh này.
    Tỉ lệ chết có thể lên đến 100% ở các ao bị nhiễm bệnh nặng khi mà tôm nhiễm bệnh trở nên lờ đờ và bỏ ăn. Ở lát cắt đơn, cơ quan gan tụy của tôm có thể teo lại có màu hơi trắng và sọc đen. Các dấu hiệu khác có thể thấy như vỏ mềm, màu thường sẫm lại và đầu ngực tôm bị đốm vằn.
    Bệnh lý học
    Cả 2 loại tôm sú P. monodon và tôm thẻ L. vannamei bị bệnh EMS đều thể hiện bệnh lý giống nhau. Các mẫu tôm dành phân tích mô học đều cho thấy các tác động của bệnh EMS chỉ giới hạn ở gan tụy (H.P.). Hoạt động khác thường tiến triển ở gan tụy đã cho kết quả các tổn thương thể hiện sự suy thoái và sự bất bình thường của các tế bào biểu mô ống phát sinh ở gần đầu đến ngoại biên.
    Sự thay đổi đầu tiên quan sát được ở gan tụy của tôm bệnh là giảm rõ rệt túi tế bào dữ trự mỡ và mất giọt mỡ, cũng như giảm hoạt động của các tế bào bài tiết. Khi bệnh tiến triển, các tế bào mỡ, các tế bào basophyl và bài tiết bị suy thoái và bắt đầu tạo thành vòng tròn, tách khỏi màng nền ống gan tụy và kết vào phần trong ống gan tụy.
    Kèm theo sự suy thoái của các tế bào này nhiều ở khu vực gần ống gan tụy, số lượng các tế bào E hoạt động trong quá trình nguyên phân giảm và phản ứng viêm nhiễm rõ rệt bị chi phối bởi sự thâm nhiễm huyết tương và bọc gói ống gan tụy nhiễm bệnh.
    Khi các tế bào biểu mô ống suy thoái, các nhân của chúng biến đổi trương phình, các nhân hầu hết đều to lên. Ở giai đoạn cuối của bệnh, dạng viêm nhiễm phái sinh nghiêm trọng có thể gây ra bởi vi khuẩn cơ hội Vibrio xảy ra ở khối tế bào biểu mô bị kết dính ở trong ống gan tụy. Tôm bệnh chết do suy thoái gan tụy và nhiễm Vibrio giai đoạn cuối.
    Nguyên nhân bệnh
    Bệnh thoái hóa gan tụy giả thuyết phần lớn cho nguyên nhân là bị nhiễm độc. Các tổn thương tương tự đã được báo cáo về gan tụy của tôm phơi nhiễm độc tố aflatoxin B1 (độc tố sản sinh do các loài nấm Aspergillus) và chất benomyl (chất diệt nấm) ức chế nguyên phân đã xác nhận thêm cho lý luận này.
    Các nghiên cứu để xác định nguyên nhân gây ra bệnh EMS được tiến hành tại Đai học Arizona Phòng thí nghiệm Bệnh học Thủy sản vẫn chưa thành công. Phòng thí nghiệm đã xét nghiệm thức ăn thương phẩm lấy ở các trang trại tôm nhiễm bệnh EMS và các mẫu tôm đông lạnh bị bệnh EMS từ các trang trại nhiễm bệnh đã được sử dụng để nghiên cứu tính lây nhiễm. Chất diệt giáp xác thường sử dụng trước khi thả giống trong khu vực nuôi để diệt các sinh vật gây hội chứng đốm trắng cũng đã được xét nghiệm. Cho đến nay, Phòng Thí nghiệm Đại học Arizona chưa thể gây bệnh thực nghiệm gan tụy phù hợp với các tổn thương đã quan sát trên tôm nhiễm bệnh EMS.
    Phòng kỹ thuật A.T.C (http://atcvietnam.com.vn)
    Nguồn: January/February 2012 tạp chí Global Aquaculture Advocate
    [IMG]
    Khảo sát bằng kính hiển vi phóng đại 40 lần mặt cắt mô gan tụy cho thấy các tế bào bài tiết bình thường (B), các tế bào dữ trự mỡ (R) và các tế bào basophil to lên. Các tế bào E, nhiều tế bào đang trong quá trình nguyên phân được nhìn thấy ở phần hình nhỏ (phóng đại 20 lần).
    [IMG]
    Hình kính hiển vi phóng đại 40 lần, mô gan tụy từ tôm sú P. monodon bị nhiễm nặng ở giai đoạn đầu của bệnh EMS. Phần ngọn ống (với các tế bào E) vẫn nguyên vẹn, còn các phần gần ống gan tụy hơn cho thấy sự hoại tử và kết dính các tế bào biểu mô ống.
    [IMG]
    Gan tụy của tôm thẻ L. vannamei ở giai đoạn cuối bệnh EMS. Trong số các tế bào biểu mô ống gan tụy HP là các khối vi khuẩn nhuộm hơi xanh (phóng đại 4 lần).
    Ban biên tập A.T.C
    Nguồn: Tạp chí nuôi trồng thủy sản Châu Á Thái Bình Dương AQUA CULTURE Asia Pacific Tháng 1-2/2012
    Lược dịch từ bài Opinion article: More on early mortality syndrome in shrimp
    bboy_nonoyes and honda67 like this.
  2. Facebook comment - Hội Chứng Tôm Chế Sớm EMS

Chia sẻ trang này