Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm trong ao . Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm trong ao

Thảo luận trong 'Thủy hải sản' bắt đầu bởi daicavoi, 9 Tháng 11 2011.

  1. daicavoi Cà Phê Không Đường

    (Lượt xem: 3,382)

    Cua (Scylla serrata var paramamosain)là loài giáp xác và là một trong
    những đối tượng có giá trị dinh dưỡng cao do có hàm lượng mỡ thấp, protein
    cao, dồi dào về khoáng chất và vitamin. Cua còn có giá trị về kinh tế và xuất
    khẩu. Con cua được xem là đối tượng nuôi xoá đói giảm nghèo và nâng cao thu
    nhập cho bà con ngư dân vùng ven biển. Những năm gần đây,
    phong trào nuôi cua thương phẩm trong ao ở bạc liêu , cà mau thường rộ lên từ tháng
    1-4 dương lịch. Vì thời điểm này nguồn giống nhiều và phong phú. Ngư dân
    nuôi cua chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và nuôi xen với các đối tượng khác như:
    tôm sú , cá. Nhằm giúp bà con nắm bắt được kỹ thuật nuôi cua hoàn chỉnh,
    xin giới thiệu Quy trình nuôi cua thương phẩm trong ao đất như sau:
    1. Chuẩn bị ao nuôi
    Ao nuôi cua có diện tích khoảng 3.000 - 5.000m2, có cống cấp và thoát
    nước riêng. Chất đáy là bùn pha cát, đất thịt pha sét ít bị nhiễm phèn, lớp bùn
    <20cm, pH từ 7.5-8.5, nhiệt độ từ 25-29oC và độ mặn từ 10-25‰.
    Đào mương sâu 0,5-0,7m nằm ở giữa ao dọc từ cống cấp đến cống tiêu, có
    độ dốc xuôi về cống tiêu. Đáy ao cần tạo nhiều gờ nổi diện tích mỗi gờ từ 10-100
    m2 tuỳ diện tích ao. Tháo cạn nước và bón vôi với lượng bón khoảng
    6kg/100m2. Phơi nắng 5-7 ngày cho đáy ao đến khi nứt nẻ chân chim.
    Tiến hành thả Chuôm tạo nơi trú ẩn cho cua (Chuôm được tạo từ các loại
    cành cây như: bần, đước... được phơi khô và bó lại thành bó).
    Lấy nước vào ao qua lưới lọc, mức nước: 0,6 - 0,8m. Gây màu nước bằng
    phân Urê : NPK 1:1, liều lượng 2kg/1000m2, NPK (20:20:0). Ngoài ra có thể
    dùng phân gà để bón cho ao, liều lượng 4kg/1000m2. Phân được hòa tan với
    nước ngọt, tạt xuống ao vào lúc 9 -10h sáng.
    Ao nuôi cua có lưới chắn xung quanh bờ ao, không cho cua bò ra ngoài,
    lưới chắn phải nghiêng về phía trong ao một góc 60o, có độ cao từ 0.8-1m.
    2. Thả giống
    Nguồn cua giống cung cấp cho nghề nuôi cua chủ yếu dựa vào nguồn
    giống tự nhiên. Nguồn cua giống thu được ở hàng đáy, ghe cào ở các cửa sông.
    Tốt nhất nên mua giống ở những vùng lân cận. Cua thu gom ngoài tự nhiên có
    nhiều kích cở khác nhau, nên chọn cua giống đều cở, có chất lượng tốt, đủ các
    phần phụ và mạnh khỏe, màu sắc tươi sáng, không bị nhiễm bệnh (bệnh teo
    cơ...).
    Những năm gần đây đã thành công trong việc ép cua nhân tạo nên ngồn giống cua chủ động và giá thành cũng giảm đi đáng kể . Khi thả giống cua ép sẽ lợi thế hơn là kích thước cua đồng đều , kích thước lớn do quản lý được cua bố mẹ .
    Mật độ thả: Thùy theo nhu cầu của người nuôi và kích cở cua giống mà
    thả nuôi với mật độ phù hợp; cở cua con/kg thả 3-5 con/m2; cở cua 20-25 con/kg
    thả 2-3 con/m2; cở 10-15 con/kg thả 0,5 -1con /m2, nên thả cua vào buổi sáng, và
    thả đều khắp ao. Cắt bỏ dây buộc, buông từ từ cua trên mép bờ để cua tự bò
    xuống nước. Những con yếu thu lại cho vào giai để theo dõi, những con khỏe thả
    xuống ao.Trước khi thả cua cần chú ý sự chênh lệch độ mặn (đối với cua giống
    mua từ trại sinh sản nhân tạo), nếu độ mặn quá chênh lệch cần tiến hành thuần
    hoá rồi mới thả. Nên thả vào lúc nhiệt độ còn thấp (7 – 9 giờ sáng).
    3. Cho ăn
    Cua nuôi trong ao chủ yếu dựa vào thức ăn cung cấp hàng ngày, lượng
    thức ăn tự nhiên trong ao không có nhiều. Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống :
    cá tạp, còng, rạm bè, đầu cá …Thức ăn cá tạp được thái nhỏ thành miếng tùy
    thuộc vào kích cở cua thả nuôi để cho cua ăn. Không nên cho cua ăn thức ăn bị
    thối. Những ngày không có thức ăn tươi thì cho cua ăn thức ăn khô: cá vụn, tép,
    khuyết phơi khô,.v.v., trước lúc cho cua ăn nên ngâm vào nước cho thức ăn mềm
    ra.
    Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 4 – 6% trọng lượng cua. Cách tính tổng
    khối lượng cua trong ao: Dùng lưới ví 5 điểm khác nhau ( 4 góc và 1 ở giữa ao,
    mỗi điểm có diện tích từ 4-5m2 ) rồi bắt sạch cua ở mỗi điểm.
    - Tổng số cua A(con) = [Tổng số cua bắt được B(con) x diện tích ao)]/
    tổng diện tích 5 điểm đã chọn.
    - Khối lượng cua trong ao M(kg) = [(Tổng khối lượng cua bắt
    được/B(con) x A (con)].
    Cua thường hoạt động bắt mồi vào buổi tối. Mỗi ngày cho cua ăn một lần
    vào thời gian từ 17 – 19h. Thức ăn được rải đều quanh ao để cua khỏi tranh
    nhau.
    Dùng sàng ăn để kiểm tra sức ăn của cua.Sau 2-3 giờ cho ăn kiểm tra sàng
    ăn, nếu cua ăn hết thức ăn trong sàng thì có thể tăng lượng thức ăn (20-30%) so
    với lượng thức ăn trong ngày, nếu thức ăn vẫn còn thì giảm lượng thức ăn (50%).
    Hàng ngày phải cho cua ăn, không được để cua đói. Những cua lớn bị đói
    sẽ giết những cua nhỏ ăn thịt. Vì vậy nuôi cua phải có thức ăn dự trữ. Những
    ngày không có thức ăn tươi sống thì cho cua ăn thức khô : cá vụn, tép, moi phơi
    khô. Trước lúc rải xuống ao cho cua ăn nên ngâm cá khô vào nước vài chục phút
    cho cá mềm ra.
    Việc đảm bảo môi trường nước trong sạch rất quan trọng đối với cua, nhất
    là nuôi mật độ dày cho ăn thức ăn tươi sống. Ở những nơi có thuỷ triều lên
    xuống hằng ngày cần thay nước thường xuyên. Mỗi ngày thay từ 20-30% lượng
    nước trong ao. Một tuần thay toàn bộ nước trong ao một lần. Khi thay nước nên
    lấy nước ở tầng dưới và tầng giữa tránh lấy nước ở tầng mặt hay bị ô nhiễm.
    Nước mới trong sạch kích thích cua hoạt động, ăn nhiều, lột xác tốt, nhanh lớn.
    Đinh kỳ 15 ngày bón vôi CaCO3, nhằm ổn định các yếu tố môi trường:
    pH, độ kiềm giúp cho cua sau khi lột xác nhanh cứng võ.
    Thường xuyên kiểm tra xung quanh bờ, cống, lưới chắn tránh thất thoát
    cua.
    Trong thời gian nuôi khoảng 2 tuần một lần bắt cua cân đo để xem sinh
    trưởng của cua, xem xét tình trạng của cua : cua nhanh nhẹn, không bị ký sinh
    ngoài vỏ, xem trong xoang mang có bị ký sinh hay không. Nếu có hiện tượng bị
    nhiễm bệnh thì phải tìm nguyên nhân và biện pháp xử lý.
    Thời gian cuối của vụ nuôi trọng lượng cua trong ao tăng lên, cho ăn thức
    ăn nhiều nên môi trường rất dễ bị nhiễm bẩn. Cho nên việc thay nước thường
    xuyên kiểm tra môi trường rất có ý nghĩa. Trong một số trường hợp, đáy ao tích
    tụ nhiều thức ăn thừa, thối rữa, có thể phải tháo cạn, gạn cua và làm vệ sinh đáy
    ao , cào bỏ lớp bùn trên mặt và thức ăn thừa thối rữa đi.
    4. Một số bệnh thường gặp và cách phòng trị
    4.1. Bệnh nổi hạt đốm trắng - đen
    * Hiện tượng: Trên thân có những đốm trắng đôi khi có cả những đốm
    đen, Cua bị bệnh bỏ ăn, yếu, không lột xác được, rêu và tảo bám trên mai, yếu
    dần rồi chết.
    * Nguyên nhân: Do 4 loài ốc (là nguồn gây bệnh) sống ở vùng nước
    nóng, độ mặn thấp trong vùng triều cửa sông. Các loại ốc này thải vào nguồn
    nước các ấu trùng của vi khuẩn thường là các vi sinh vật thuộc nhóm lá gan và
    sau đó lây nhiễm vào Cua. Giai đoạn đầu, rất ít khi phát hiện được nếu không có
    kính hiển vi
    * Phòng trị:
    - Tắm cho Cua bằng sulfat đồng nồng độ 0.5g/m3 có sục khí, thời gian chữa trị
    kéo dài 8 - 10 ngày.
    - Rải vôi bột thường xuyên để diệt khuẩn và tiệt trùng.
    4.2. Bệnh đen mang
    * Hiện tượng: Mang Cua có những đốm đen, các tơ và áo mang chuyển
    màu đen một thời gian mang có mùi rất tanh, thối từng phần cho tới toàn bộ
    mang Cua. Thân Cua bị bệnh phần vỏ ngoài có các đốm đen, sau đó gây mù mắt.
    Bệnh xuất hiện cả giai đoạn Cua con và Cua trưởng thành. Sau khi mắt bệnh Cua
    bỏ ăn, gây yếu, hô hấp kém nằm im không hoạt động.
    *Nguyên nhân: Do các ký sinh trùng sán lá đơn chủ xuất hiện nhiều sau
    khi nước có độ mặn thấp hoặc sau khi có mưa lớn, Sán lá đơn chủ trắng nhỏ như
    sợi tơ đục thủng mang gây hoại tử mang Cua. Nấm, Vi khuẩn dạng sợi, hay khi
    nồng độ các khí độc Amoniac và Sulfua hydro cao trong môi trường đầm nuôi.
    * Phòng bệnh:
    - Tắm cho Cua bằng Formol với nồng độ 16 - 30ml/m3 nước trong 15 - 20 phút,
    có sục khí, thời gian điều trị 6 - 8 ngày.
    - Tắm cho Cua bằng dung dịch Sulfat đồng với nồng độ 0.6g/m3, mỗi lần tắm
    ngâm trong 6 - 8 phút có sục khí. Thời gian chữa trị 6 - 8 ngày.
    - Dùng vôi bột để diệt các ký sing trùng, vi khuẩn.
    - Khi có dấu hiệu bệnh hoặc thời tiết xấu, mà kéo dài dùng khán sinh
    Norfloxacin, Nalidixicacid, Ciprofloxacin trộn vào thức ăn với liều 40 - 50g/kg
    thức ăn để phòng bệnh. Thời gian phòng bệnh 6 - 8 ngày.
    4.3. Bệnh Đốm trắng - Vàng trên vỏ
    * Hiện tượng: Trên mai và yếm xuất hiện đốm trắng - vàng.Cua gầy yếu,
    chậm lột xác hoặc lột xác kéo dài, Cua bỏ ăn rồi chết.
    * Nguyên nhân: Phải phân biệt nguyên nhân bệnh gây ra chỉ là dấu hiệu
    của việc no nước trước khi lột. Nếu Cua có đốm trắng - vàng nhưng biểu hiện
    vẫn khỏe mạnh vận động và cảm giác bắt mồi nhanh thì đó là dấu hiệu sinh lý
    trước khi lột xác. Màu sắc này có thể trong nước giàu canxi và magiê hay vôi bột
    bám là bình thường. Các đốm trắng - vàng này sẽ hết sau khi lột xác.
    * Phòng bệnh:
    - Sử dụng thức ăn tươi sạch, cho ăn vừa đủ, thức ăn thừa phải dọn sạch.
    - Trộn thêm kháng sinh như Norfloxacin, Nalidixic acid, Ciproflo xacin... và các
    vitamin A, C bổ sung vào thức ăn để tăng sức đề kháng.
    4.4. Bệnh teo các chân
    * Hiện tượng: Triệu chứng của bệnh biểu hiện, Cua dùng càng vận động
    như muốn bò đi nhưng không nhích lên được. người ta gọi đây là bệnh cua vặn
    mình. Thân gầy yếu, các chân bò, chân bơi teo tóp, Cua lười vận động, phản xạ
    bắt mồi chậm.
    * Nguyên nhân: Do đấy ao ngiễm bẩn, thức ăn thừa nhiều, vệ sinh ao hồ
    kém, nhiễm Vibrospp. Ngoài ra do sự biến động thất thường của yếu tố nhiệt độ,
    Cua không tự điều chỉnh cân bằng được nhiệt độ cho mình dẫn đến Cu bị nhiểm
    lạnh.
    * Phòng bệnh:
    - Đảm bảo độ sâu ao nuôi nhằm ổ định nhiệt độ.
    - Vệ sinh ao hồ nuôi chu đáo tạo môi trường tốt cho Cua.
    - Tắm cho Cua bằng dung dịch Oxytetracylie với nồng độ 0.5 - 3g/m3. Thời gian
    tắm 20 - 30 phút, điều trị 6 - 8 ngày.
    Trộn kháng sinh Oxyteraccyline và dầu thực vật vào thức ăn với liều lượng
    50mg/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 6 - 8 ngày.
    Dùng kháng sinh Norfloxacin, Nalidixic acid, Ciprofloxacin trộn vào thức ăn
    hàng ngày với liều 40 - 60g/kg thức ăn để phòng bệnh.

    5. Một số điểm cần chú ý để nuôi cua thành công :
    - Cua giống phải đồng cỡ, thả cùng một lúc;
    - Phải có đủ nguồn nước trong sạch để thay thường xuyên;
    - Phải có đủ nguồn thức ăn tươi sống;
    - Phải có lưới chắn ở trên bờ ao;
    - Trong ao phải có các ụ, chuôm làm nơi trú ẩn cho cua.
    6. Thu hoạch
    Sau 3- 4 tháng nuôi, đánh thử cua lên kiểm tra chất lượng. cua đạt tỉ lệ
    sống trung bình trên 60%. Cua thương phẩm phải đạt 250g/con trở lên. Cua chắc
    thịt hoặc đã đầy gạch (cua cái). Khi thấy cua đã đạt tiêu chuẩn, được giá thì thu
    hoạch cua để bán, có thể thu tỉa bằng cách thả rập.Sau đó tiến hành thu toàn bộ:
    khi cua giống đều đạt kích cỡ yều cầu, thu hết giá thể mà cua trú ẩn, rồi tiến hành
    xả cạn bắt cua.
    Những cua chưa đạt kích thước, trọng lượng, cua ốp hoặc chưa đầy gạch
    nếu còn khoẻ mạnh thì có thể đem nuôi ở các ao nhỏ, nuôi vỗ tích cực sau một
    thời gian đạt tiêu chuẩn, thu hoạch bán sẽ được giá hơn.
    Nguyễn Thanh Tuấn & Lê Thị Bích Thủy - TT. Khuyến Nông Lâm Ngư


  2. Facebook comment - Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm trong ao . Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm trong ao

  3. Hồi đó lão có học nuôi cua thương phẩm nhưng giờ quên hết rồi.nuôi không bằng nuôi tôm đâu anh Voi
  4. daicavoi Cà Phê Không Đường

    Nhưng theo voi biết thì hơn năm nay con cua là thu nhập chính của đa số người dân nuôi tôm tự nhiên của Xã An Phúc - Huyện Đông Hải đó . Khi con tôm thất thì chết sạch , nhưng con cua thì còn lai rai hoài , với lại giá cua gần đây cao và ổn định .

    Người dân ở vùng Voi truyền miệng câu này " giàu nhờ tôm nhưng sống nhờ cua " .
  5. Nhà em nuôi tôm nhưng cua thì cứ thả lai rai vào, tôm thất thì còn cua :D
  6. hay lắm!
    Hiện nay nhiều ao nuôi tôm bị chết nhiều lần,
    Người dân ít tiền đã chuyển sang thả những loài hải sản thay thế..
    như Cua và Cá Kèo..
    lala..

Chia sẻ trang này