Các nhà khoa học Anh nhận xét kết quả của họ là có ý nghĩa vì mỗi năm khoảng 40.000 phụ nữ Anh phải điều trị bệnh tử cung. Kết quả này cũng ngược lại với các nghiên cứu trước đó cho rằng nguy cơ sinh non ở phụ nữ điều trị bệnh tử cung tăng khoảng 5,6%. Để nghiên cứu, các nhà khoa học Anh đã tham khảo cắt ngang bệnh án ở bệnh viện sản phụ khoa với bệnh án của hơn 44.000 phụ nữ Anh được lấy mẫu mô tử cung. Họ có thể xác định hơn 18.000 trẻ được sinh ra bởi những phụ nữ này. Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra số lượng ca sinh non trước và sau khi nội soi cổ tử cung. Họ cũng so sánh phụ nữ có LLETZ (phương pháp cắt bỏ các vùng bị biến chất) với những phụ nữ chỉ sinh thiết cổ tử cung. Các nhà khoa học cũng so sánh tỷ lệ sinh non ở những phụ nữ tham gia nghiên cứu với tỷ lệ sinh non nói chung ở Anh. Nghiên cứu cho thấy 8,8% số ca sinh đẻ ở phụ nữ trong nghiên cứu này là sinh non so với tỷ lệ là 6,7% trong dân cư nói chung. Phụ nữ được điều trị những thay đổi cổ tử cung trước khi mang thai có tỷ lệ sinh non là khoảng hơn 1,4/100 ca sinh đẻ so với những phụ nữ chỉ sinh thiết. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhận xét rằng phụ nữ sinh con trước khi nội soi cổ tử cũng cũng dễ sinh non hơn so với phụ nữ chỉ tiến hành sinh thiết. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng điều trị các bất thường cổ tử cung không làm tăng nguy cơ sinh non ở phụ nữ. Nghiên cứu được đăng trực tuyến ngày 17/8 trên tạp chí Y học Anh (BJM).