100 BÀI THƠ HAY NHẤT VIỆT NAM THẾ KỶ 20 - TOP 100 BÀI THƠ HAY NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CỦA VIỆT NAM Danh sách 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20 Ngoài Nguyên Tiêu, 99 bài còn lại được sắp xếp theotên tác giả dựa vào bảng chữ cái A >>> G 01. Nguyên Tiêu - Hồ Chí Minh 02. Ngày Hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc 03. Những bóng người trên sân ga - Nguyễn Bính 04. Tạm biệt Huế - Thu Bồn 05. Vào chùa - Đồng Đức Bốn 06. Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh 07. Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao 08. Núi Đôi - Vũ Cao 09. Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm 10. Tràng Giang - Huy Cận 11. Dọn về làng - Nông Quốc Chấn 12. Quê hương - Nguyễn Bá Chung 13. Say đi em - Vũ Hoàng Chương 14. Miền Trung - Hoàng Trần Cương 15. Đường về quê mẹ - Đoàn Văn Cừ 16. Anh đừng khen em - Lâm Thị Mỹ Dạ 17. Nguyệt cầm - Xuân Diệu 18. Cô bộ đội ấy đã đi rồi - Phạm Tiến Duật 19. Tây tiến - Quang Dũng 20. Lên Côn Sơn - Khương Hữu Dụng 21. Đò lèn - Nguyễn Duy 22. Chiều - Hồ Dzếnh 23. Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà 24. Cha tôi - Lê Đạt 25. Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm 26. Núi mường Hung dòng sông Mã - Cầm Giang 27. Mắt buồn - Bùi Giáng ---------------------------------- 01. Nguyên tiêu .::Hồ Chí Minh::. Nguyên Tiêu Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên. Yên ba thâm xứ đàm quân sự Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. 1948 Dịch nghĩa: Đêm rằm tháng riêng Đêm nay, rằm tháng riêng, trăng vừa tròn, Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xanh. Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân, Nửa đêm trở về, ánh trăng đầy thuyền. 1948 Dịch thơ: Rằm tháng riêng Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. (Xuân Thủy dịch) ---------------------------------- B 02. Ngày hoà bình đầu tiên .:: Phùng Khắc Bắc::. Những sợi nắng xuyên qua nhà mình Thành những mũi tên Thành những viên đạn Bắn tiếp và anh không gì che chắn Phải nhận tất cả Van anh Hôm qua chưa nhận được một viên đạn Hôm nay nhận được lỗ thủng Anh về quê không mang súng Vũ khí lúc này là hai bàn tay... Mẹ giục ăn cơm con Hòa bình trong canh cua, rau mồng tơi, cà Và Mùi ổ rơm ---------------------------------- 03. Những bóng người trên sân ga .::Nguyễn Bính::. Những cuộc chia lìa khởi tự đây Cây đàn sum họp đứt từng dây Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc Lần lượt theo nhau suốt tối ngày. Có lần tôi thấy hai cô bé áp má vào nhau khóc sụt sùi Hai bóng chung lưng thành một bóng "Đường về nhà chị chắc xa xôi". Có lần tôi thấy một người yêu Tiễn một người yêu một buổi chiều ở một ga nào xa vắng lắm Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu. Hai người bạn cũ tiễn chân nhau Kẻ ở trên toa kẻ dưới tàu Họ giục nhau về ba bốn bận Bóng nhoà trong bóng tối từ lâu. Có lần tôi thấy vợ chồng ai Thèn thẹn đưa nhau bóng chạy dài Chị mở khăn giầu anh thắt lại "Mình về nuôi lấy mẹ, mình ơi". Có lần tôi thấy một bà già Đưa tiễn con đi trấn ải xa Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng Lưng còng đổ bóng xuống sân ga. Có lần tôi thấy một người đi Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì Chân bước hững hờ theo bóng lẻ Một mình làm cả cuộc phân ly. Những chiếc khăn màu thổn thức bay Những bàn tay vẫy những bàn tay Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt Buồn ở đâu hơn ở chốn này? Hà Nội 1937 ---------------------------------- 04. Tạm biệt Huế .::Thu Bồn::. Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng Mặt trời vàng và mắt em nâu Xin chào Huế một lần anh đến Để ngàn lần anh nhớ hư vô Em rất thực nắng thì mờ ảo Xin đừng lầm em với cố đô Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền Nón rất Huế mà đời không phải thế Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng Nhịp cầu cong và con đường thẳng Một đời anh đi mãi chẳng về đâu Con sông dùng dằng con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng Anh trở về hóa đá phía bên kia. ---------------------------------- 05. Vào chùa .::Đồng Đức Bốn::. Đang trưa ăn mày vào chùa Sư ra cho một lá bùa rồi đi Lá bùa chẳng biết làm gì Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày. ---------------------------------- C 06. Sư đoàn .:: Phạm Ngọc Cảnh::. Sẽ có những sư đoàn thép Bất kỳ nơi đâu Không khuất phục tù đày chém giết Nơi đâu Người sống nợ nần người đã chết Bất kỳ nơi đâu Từ một cây "mút nhét" Một sải xuồng bơi Một nọc ong châm góp làm sự nghiệp Gốc tre xanh thắng trận cả ba đời Ba mươi triệu tấm lòng xông ra tuyến lửa Vạch lối điều quân Vai chảy xe thồ Trồng cây xanh che chở Mỗi bước quân đi Đánh trận trường kỳ Đêm trước nấp trong lùm bắn tỉa Sớm sau dàn trận chính qui Đến trận bão hiệp đồng cả nước Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi... Đất giải phóng thênh thang Sẽ cho ta dàn đội ngũ - sư đoàn Phía trước gọi ta Những Điện Biên vòng đai thép tung ra làm chiến dịch Đòn gánh hậu phương vượt đèo đi phản kích Hành quân Hành quân Trùng điệp những sư đoàn Đi lên phía Bắc Tràn về hướng Nam Những vị tướng lại cầm quân đi đánh giặc Trải bản đồ Còn nguyên Vạch chỉ đỏ thắt quanh hầu giặc Pháp Bài học chiến tranh nhân dân Lại tiếp Trang ấp Bắc - Plây me Và chiến công lên ngực áo những binh nhì Đất nước sẽ cho ta Những chùm con số đẹp Làm tên gọi khai sinh sư đoàn thep Này đây Doi cát Cửu Long xanh Sư đoàn Châu Thổ Giữa bãi sú, rừng tràm Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ Sư đoàn Tây Nguyên Từ hầm chông bẫy đá cung tên Này đây Cực Nam Phan Rang - Phan Thiết Này đây Quảng Ngãi - Phú Yên Trên nguồn xa Ô Lâu - Thạch Hãn Sẽ tiến về Sư đoàn Trị Thiên Lại có một ngày Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở Như Hà Nội đã từng Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió Đón con em Đón những sư đoàn Mang chiến thắng trở về Rập bước Ca vang! 1966 ---------------------------------- 07. Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc .::Văn Cao::. Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa Chập chờn ảo hóa tà ma... Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục Tình tang... Não nuột khóc tàn sương áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể Ta đi giữa đường dương thế Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây... Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ Thanh xuân hờ thanh xuân Bước gần ta chút nữa thêm gần Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy Ai hủy đời trên tang trống nhỉ? Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya! Đảo điên... mê say... Thể phách chia lìa Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo! Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi! - Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo Dặt dìu cung bậc âm dương Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch Đầm đìa rả rích phương Đông Mang mang thở dài hồn đất trích Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô Cửa ô đau khổ Bốn ngả âm u (Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc) Đêm đêm, dài canh tan tác Bốn vực nhạc động, vẫy người Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời Ta về gác chiếu chăn gào tự tử Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ Kèn nhịp xa điệu múa vô luân Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc Kiếp người tang tóc Loạn lạc đòi xương chất lên xương Một nửa kêu than, ma đói sa trường Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác Đi vào ngõ khói công yên Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền Hương nha phiến chập chờn mộng ảo Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo - Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực Mưa, mưa hằng thao thức Trong phố lội đìu hiu Mưa, mưa tràn trên vực - Hang tối gục tiêu điều Mang linh hồn cô liêu Tiếng xe càng ám ảnh Tiếng xa dần xa lánh Khi gà đầu ô kêu. 1945 ---------------------------------- 08. Núi đôi .::Vũ Cao::. Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng Xuân Dục, Đoài Đông hai nhánh lúa Bữa thì anh tới bữa em sang. Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi Em vẫn đùa anh sao khéo thế Núi chồng, núi vợ đứng song đôi. Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn Ai ngờ từ đó mất tin nhau. Anh vào bộ đội lên Đông Bắc Chiến đấu quên mình năm lại năm Mỗi bận dân công về lại hỏi Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng. Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi Mỗi tin súng nổ vùng đai địch Sương trắng người đi lại nhớ người. Đồng đội có nhau thường nhắc nhở Trung du làng nước vẫn chờ trông Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm Em vẫn đi về những bến sông. Náo nức bao nhiêu ngày trở lại Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi Hành quân qua tắt đường sang huyện Anh nhớ thăm nhà thăm Núi Đôi. Mới đến đầu ao tin sét đánh Giặc giết em rồi, dưới gốc thông Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa Em sống trung thành chết thuỷ chung. Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn Đôi mà anh mất em. Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo Em còn trẻ lắm, nhất làng trong Mấy năm cô ấy làm du kích Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng. Từ núi qua thôn đường nghẽn lối Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao nhà đổ chái Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay. Cha mẹ dìu nhau về tận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau Nứa gianh nửa mái lều che tạm Sương trắng khuấy dần chuyện xót đau. Anh nghe có tiếng người qua chợ Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu. Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ Oán thù còn đó anh còn đây Ở đâu cô gái làng Xuân Dục Đã chết vì dân giữa đất này? Ai viết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng bia trắng giữa đồng Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm. ---------------------------------- 09. Bên kia sông Đuống .::Hoàng Cầm::. Em ơi! Buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ Xanh xanh bãi mía bờ dâu Ngô khoai biêng biếc Đứng bên này sông sao nhớ tiếc Sao xót xa như rụng bàn tay Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm đồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu ? Ai về bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em xột xoạt quần nâu Bây giờ đi đâu ? Về đâu ? Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa mầu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu Bây giờ đi đâu ? Về đâu ? Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong Dăm miếng cau khô Mấy lọ phẩm hồng Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo Xì xồ cướp bóc Tan phiên chợ nghèo Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông Chưa bán được một đồng Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp trên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ? Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ Bên kia sông Đuống Ta có đàn con thơ Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm Ú ớ cơn mê Thon thót giật mình Bóng giặc dày vò những nét môi xinh Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết nguôi hờn Đêm buông xuống dòng sông Đuống -- Con là ai ? -- Con ở đâu về ? Hé một cánh liếp -- Con vào đây bốn phía tường che Lửa đèn leo lét soi tình mẹ Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể Những chuyện muôn đời không nói năng Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống Bộ đội bên sông đã trở về Con bắt đầu xuất kích Trại giặc bắt đầu run trong sương Dao loé giữa chợ Gậy lùa cuối thôn Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn Ăn không ngon Ngủ không yên Đứng không vững Chúng mày phát điên Quay cuồng như xéo trên đống lửa Mà cánh đồng ta còn chan chứa Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân Gió đưa tiếng hát về gần Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa Tiếng bà ru cháu buổi trưa Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu "À ơi... cha con chết trận từ lâu Con càng khôn lớn càng sâu mối thù" Tiếng em cắt cỏ hôm xưa Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay "Thân ta hoen ố vì mày Hờn ta cùng với đất này dài lâu..." Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu Cánh đồng im phăng phắc Để con đi giết giặc Lấy máu nó rửa thù này Lấy súng nó cầm chắc tay Mỗi đêm một lần mở hội Trong lòng con chim múa hoa cười Vì nắng sắp lên rồi Chân trời đã tỏ Sông Đuống cuồn cuộn trôi Để nó cuốn phăng ra bể Bao nhiêu đồn giặc tơi bời Bao nhiêu nước mắt Bao nhiêu mồ hôi Bao nhiêu bóng tối Bao nhiêu nỗi đời Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh. Việt Bắc, tháng 4 - 1948 ---------------------------------- 10. Tràng Giang .::Huy Cận::. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc giữa dòng Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, chiều lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dờn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà ---------------------------------- 11. Dọn về làng .::Nông Quốc Chấn::. Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng dày như củi. Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai Mấy năm qua quên Tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi Cơn gió bão trên rừng cây đổ Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa Ðường đi lại vắt bám đầy chân. Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi Nó vơ hết áo quần trong túi Mẹ địu em chạy tót lên rừng Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải Bà lòa mắt không biết lối bước đi. Làm sao bây giờ: ta phải chống! Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh, Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây Súng nổ ngay đì đùng một loạt Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất Cha ơi: cha không biết nói rồi... Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy? Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời! Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín" con im. Lán anh em rải rác không biết nơi tìm Không ván, không người đưa cha đi cất Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng Con cởi áo liệm thân cho bố! Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ Máu đầy tay, trên mặt nước tràn... Mày sẽ chết! thằng giặc Pháp hung tàn Băm xương thịt mày, tao mới hả! Hôm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang Dọn láng, rời rừng, người xuống làng Người nói cỏ lay trong ruộng rậm Con cày mẹ phát ruộng ta quang. Ðường cái kêu vang tiếng ô tô Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ. Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá. Mặc gà gáy chó sủa không lo Ngày hai bữa rau ta có muối Ngày hai buổi, không tìm củ pầu, củ nâu Có bắp xay độn gạo no lâu, Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con Quả trên cành không lo tự chín tự rụng Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng. Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng Ra đường xe, hát nói ung dung Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai, Chân đi có giày không sợ nẻ Trên đầu có mũ che nắng mưa Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ! Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà, Giặc Pháp, Mỹ còn giết người cướp của trên đất nước ta. Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ Mùa đông 1950 ----------------------------------
Quê Hương .::Nguyễn Bá Chung::. Ba mươi năm xa cách quê hương Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ Nhớ lần đầu - tóc tang trời ủ rủ Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên Có cái gì là lạ không thể quên Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi Như nỗi đau không thể làm dịu vợi Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm Như bầu trời nửa xám nửa không quen Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ Những người xưa vì nước xả thân mình Con đường quê vẫn mãi mãi gập ghềnh Bao năm tháng những người làng chịu đói Năm Ất Dậu tất cả làng tụ lại Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi Vết thương đau chưa chôn đủ tháng ngày Để về đây nhận lại mặt người Để mình biết mình vẫn là mình cũ Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ Nhìn quê hương để lại nhận ra mình ---------------------------------- 13. Say đi em .::Vũ Hoàng Chương::. Khúc nhạc hồng êm ái Điệu kèn biếc quay cuồng Một trời phấn hương Đôi người gió sương Đầu xanh lận đận, cùng xót thương càng nhớ thương Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo Hồn ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo, Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương, Lòng nghiêng tràn hết yêu đương Bước chân còn nhịp. Nghê thường lẳng lơ. Ánh đèn tha thướt Lưng mềm, não nuột dáng tơ Hàng chân lả lướt Đê mê hồn gửi cánh tay hờ. Âm ba gờn gợn nhỏ, Ánh sáng phai phai dần Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân Lui đôi vai, tiến đôi chân, Riết đôi tay, ngả đôi thân, Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ, Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta ! Cổ chưa khô, đầu chưa nặng, mắt chưa hoa Tay mềm mại, bước còn chưa chuếnh choáng. Chưa cuối xứ Mê Ly, chưa cùng trời Phóng Đãng. Còn chưa say, hồn khát vẫn thèm men. Say đi em! Say đi em! Say cho lơi lả ánh đèn Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt. Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết! Ta quá say rồi Sắc ngả màu trôi Gian phòng không đứng vững Có ai ghì hư ảnh sát kề môi. Chân rã rời Quay cuồng chi được nữa Gối mỏi gần rơi Trong men cháy, giác quan vừa bén lửa Say không còn biết chi đời Nhưng em ơi, Đất trời nghiêng ngửa Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ; Đất trời nghiêng ngửa Thành Sầu không sụp đổ, em ơi! ---------------------------------- 14. Miền Trung .::Hoàng Trần Cương::. Bao giờ em về thăm Quê hương anh một thời ngút lửa Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa Chuốt ruột mình thành giải lụa Sông Lam Miền Trung Tấm lưng trần đen sạm Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm giăng màn Thoáng bóng giặc núi bửa báng súng Những đứa con văng mình như mảnh đạn Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi Miền Trung Bao đời núi bể kề đôi Ôi! Biển Đông - giọt nước mắt của muôn ngàn thế hệ Nóng hổi như vừa lăn xuống Theo những tượng đá cụt đầu của Trường Sơn uy nghiêm Miền Trung Câu ví dặm nằm nghiêng Trên nắng và dưới cát Đến câu hát cũng hai lần sàng lại Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm Miền Trung Bao giờ em về thăm Mảnh đất nghèo mùng tơi không kịp rớt Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ Không ai giao mà trắng mặt người Miền Trung Eo đất này thắt đáy lưng ong Cho tình người đọng mật Em gắng về Đừng để mẹ già mong. ---------------------------------- 15. Đường Về quê mẹ .::Đoàn Văn Cừ::. U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân, Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần, Lại dẫn chúng tôi về nhận họ Bên miền quê ngoại của hai thân. Tôi nhớ đi qua những rặng đề, Những dòng sông trắng lượn ven đê . Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp, Người xới cà, ngô rộn bốn bề . Thúng cắp bên hông, nón đội đầu, Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu Trông u chẳng khác thời con gái Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au . Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng, Đoàn người về ấp gánh khoai lang, Trời xanh cò trắng bay từng lớp, Xóm chợ lều phơi xác lá bàng. Tà áo nâu in giữa cánh đồng, Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng. Bóng u hay bóng người thôn nữ Cúi nón mang đi cặp má hồng. Tới đường làng gặp những người quen. Ai cũng khen u nết thảo hiền, Dẫu phải theo chồng thân phận gái Đường về quê mẹ vẫn không quên ---------------------------------- D 16. Anh đừng khen em Lâm Thị Mỹ Dạ::. Lần đầu khi mới làm quen Anh khen cái nhìn em đẹp Trời mưa òa cơn nắng đến Anh khen đôi má em hồng Gặp người tàn tật em khóc Anh khen em nhạy cảm thông Thấy em sợ sét né giông Anh khen sao mà hiền thế Thấy em nâng niu con trẻ Anh khen em thật dịu dàng Khi hôn lên câu thơ hay Ấp trang sách vào mái ngực Em nghe tim mình thổn thức Thương người làm thơ đã mất Trái tim giờ ở nơi đâu Khi đọc một cuộc đời buồn Lòng em xót xa ấm ức Anh khen em cảm xúc Và bao điều nữa...Anh khen Em sợ lời khen của anh Như sợ đêm về trời tối Nhiều khi ngồi buồn một mình Trách anh sao mà nông nỗi Hãy chỉ cho em cái kém Ðể em nên người tốt lành Hãy chỉ nơi anh cái xấu Ðể em chăm chút đời anh Anh ơi anh có biết không Vì anh em buồn biết mấy Tình yêu khắt khe thế đấy Anh ơi anh đừng khen em ---------------------------------- 17. Nguyệt cầm Xuân Diệu::. Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân. Mây vắng trời trong đêm thủy tinh Lung linh bóng sáng bỗng run mình Vì nghe nương tử trong câu hát Đã chết đêm rằm theo nước xanh. Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời, Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi... Long lanh tiếng sỏi vang vang hận Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người... Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề... Sương bạc làm thinh, khuya nín thở Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê ---------------------------------- 18. Cô bộ đội ấy đã đi rồi .hạm Tiến Duật::. Cô bộ đội ấy đã đi rồi Chuyển đơn vị vào vùng rừng trong ấy Em gái đi, các anh ở lại Biết đến bao giờ mới được gặp nhau Lũng thì thẳm mà rừng thì sâu Để hun hút nhớ nhau biền biệt Bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu bạn bè thân thiết Xa nhau như xa nhau hôm nay Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay Nước mắt dễ lây mà rừng thì lặng quá Anh biết rồi bao nhiêu vất vả Tháng năm dài cùng nhau đi qua Để sáu bảy năm em gái xa nhà Hăm bảy tuổi chuyện chồng con chưa nói Cả một thời trẻ trung sôi nổi Ở bên nhau bếp lửa giữa rừng xa Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già Ngón tay nóng cầm viên thuốc mát Cái đêm đói ngồi nghe chim đắp tát Con chó vàng cọ chân em đòi ăn Nhớ nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm Căn nhà dột tóc em ướt hết Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ Nhớ trưa đỉnh đèo ta đứng ngẩn ngơ Nhìn mây trắng chân trời ngỡ biển Biển Đông thì xa, biết ta nhìn chẳng đến Nhưng em vui anh kể chuyện em nghe Trưa vác gạo ta dừng bên khe Một đoàn tù binh đi qua đang đứng ngó Bên những thằng người áo quần loang lổ Bóng em lồng bóng suối trong veo Lúc ấy lòng anh biết mấy tự hào Tự hào vì có em ở đây, tự hào vì đất nước Ở đây màu hồng xiết bao thân thuộc Xao xuyến lòng anh, xao xuyến bạn bè Đến chào anh sáng mai em đi Như ngày nào chào bà con hàng xóm Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay Rồi ngày mai xa vắng nơi đây Em lại có bao nhiêu đồng đội mới Trong chiến tranh một khát khao sôi nổi Là nhân dân đoàn tụ muôn đời Cô bộ đội ấy đã đi rồi ---------------------------------- 19. Tây tiến .::Quang Dũng::. Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây tiến đoàn quân không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Phù Lưu Chanh - 1948 ---------------------------------- 20. Lên Côn Sơn .::Khương Hữu Dụng::. Lên đỉnh Côn Sơn tìm Nguyễn Trãi Trên đầu xanh ngắt một bầu không Bàn cờ thế sự quân không động Mà thấy quanh mình nỗi bão dông ---------------------------------- 21. Đò lèn .::Nguyễn Duy::. Thuở nhỏ tôi ra Cống Na câu cá níu váy bà đi chợ Bình Lâm bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần Thuở nhỏ tôi lên chơi đền cây Thị chân đất đi đêm xem lễ Đền Sòng. mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng. Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực giữa bà tôi và tiên phật thánh thần cái năm đói củ giong riềng luộc sượng. cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn? Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi Khi tôi biết thương bà thì đã muộn Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi! 9-1982 ---------------------------------- 22. Chiều .::Hồ Dzếch::. Trên đường về nhớ đầy Chiều chậm đưa chân ngày Tiếng buồn vang trong mây. Chim rừng quên cất cánh Gió say tình ngây ngây Có phải sầu vạn cổ Chất trong hồn chiều nay? Tôi là người lữ khách Màu chiều khó làm khuây Ngỡ lòng mình là rừng Ngỡ hồn mình là mây Nhớ nhà châm điếu thuốc Khói huyền bay lên cây... ----------------------------------
Đ 23. Thăm mả cũ bên đường .::Tản Đà::. Chơi lâu nhớ quê về thăm nhà, Đường xa, người vắng, bóng chiều tà. Một dãy lau cao làn gió chạy, Mấy cây thưa lá sắc vàng pha. Ngoài xa trơ một đống đất đỏ, Hang hốc đùn lên đám cỏ gà. Người nằm dưới mả, ai ai đó? Biết có quê đây hay vùng xa? Hay là thuở trước kẻ cung đao Hám đạn liều tên quyết mũi dao, Cửa nhà xa cách, vợ con khuất, Da ngựa gói bỏ lâu ngày cao? Hay là thuở trước kẻ văn chương Chen hội công danh nhỡ lạc đường, Tài cao phận thấp, chí khí uất, Giang hồ mê chơi quên quê hương? Hay là thuở trước khách hồng nhan Sắc sảo khôn ngoan đất trời ghen, Phong trần xui gặp bước lưu lạc, Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn? Hay là thuở trước khách phong lưu Vợ con đàn hạc đề huề theo, Quan san xa lạ đường lối khó Ma thiêng nước độc phong sương nhiều? Hay là thuở trước bậc tài danh Đôi đôi lứa lứa cũng linh tinh Giận duyên tủi phận, hờn ân ái Đất khách nhờ chôn một khối tình? Suối vàng sâu thẳm biết là ai? Mả cũ không ai kẻ đoái hoài! Trải bao ngày tháng trơ trơ đó, Mưa dầu nẵng dãi, trăng mờ soi! Ấy thực quê hương con người ta Dặn bảo trên đường những khách qua: Có tiếng khóc eo thời có thế, Trăm năm ai lại biết ai mà? ---------------------------------- 24. Cha tôi .::Lê Đạt::. Đất quê cha tôi đất quê Đề Thám Rừng rậm sông sâu Con gái cũng theo đòi nghề võ Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ đi chăn trâu Phất ngọn cờ lau Vào rừng Na Lương đánh trận Mơ làm Đề Thám Lớn lên, cha tôi đi dạy học Gối đầu trên cuốn Chiêu hồn nước Khóc Phan Chu Trinh Như khóc người nhà mình Ôm mộng bôn ba hải ngoại Lênh đênh khói một con tàu Sớm tối ngâm nga mấy vần cảm khái Đánh nhau với Tây Bỏ việc lang thang vào Nam ra Bắc Cắt tóc đi tu nhưng quá nặng nghiệp đời Gần hai mươi năm trời Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng Dạy tôi làm thơ, ước mơ, hi vọng Những câu Kiều say sưa đưa cuộc đời bay bổng Tiếng võng trưa hè mênh mông Phong trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì. Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày mỗi khó Cuộc đời chợ đen chợ đỏ Thù hằn con người "Muốn sống thanh cao đi lên trời mà ở Mày đã quyết kiêu căng Níu lấy cái lương tâm gàn dở Dám không tồi như chúng tao Suốt đời mày sẽ khổ". Quan lại trù cha tôi cứng đầu cứng cổ Người "An Nam" dám đánh "ông Tây" Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày Chửi mèo, mắng chó "Cũng là chồng là con Chồng người ta khôn ngoan Được lòng ông tuần ông phủ Mang tiền về nuôi vợ". Bát đĩa xô nhau vỡ Cha tôi nằm thở dài Cha nhịn đi cho đỡ Anh em tôi, bỏ cơm Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn Trời mùa đông trăng sáng Sao nở như hoa Không biết Ngưu Lang trên kia Có bao giờ cãi Chức Nữ. Rồi cha tôi lui tới nhà quan tuần, quan phủ Lúc về, gặp tôi đỏ mặt quay đi Một hôm, tôi thấy chữ R.O treo ngoài cửa Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa Người còn bận đếm tiền ghi sổ Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ Một mình uống rượu say Ngâm mấy câu Kiều, ôm mặt khóc Tỉnh dậy lại loay hoay ghi sổ đếm tiền Hai vai nhô lên Đầu lún xuống Như không mang nổi cuộc đời Bóng in tường vôi im lặng Ngọn đèn leo leo ánh sáng Bóng với người như nhau Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt Ở chân bàn hay ở cha tôi? Cuộc sống hàng ngày nhỏ nhen tàn bạo. Rác rưởi gia đình miếng cơm manh áo Tàn phá con người. Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh Rũ đầu chết ngạt trong bùn Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng. Cha đã dạy con một bài học lớn Đau thương kiên quyết làm người. Không nên lùi bước cuộc đời phải thắng. 7 - 1956 ---------------------------------- 25. Mẹ và Quả .::Nguyễn Khoa Điềm::. Những mùa quả mẹ tôi hái được Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng Những mùa quả lặn rồi lại mọc Như mặt trời, khi như mặt trăng Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên Còn những bí và bầu thì lớn xuống Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi. Và chúng tôi, một thứ quả trên đời Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn một thứ quả non xanh? ---------------------------------- G 26. Núi Mường Hung dòng sông Mã .::Cầm Giang::. Anh là núi Mường Hung Em là dòng sông Mã Sông nhiều rêu, nhiều cá Núi nhiều thú, nhiều măng Chiều bóng anh che sông Sớm mắt em long lanh Sáo cành cây ạnh thổi vang lanh lảnh Gió lùa qua miệng anh lại mỉm cười Rộn ràng em thuyền độc mộc ngược xuôi Như trăm nỗi băn khoăn khi đến tuổi Nếu trời làm em sóng nổi Anh ngả mình ngăn lại lúc phong ba Em là búp bông trắng Anh là ngọn lúa vàng Thi nhau lớn đẹp nương Toả mùi thơm cùng nghe chim hót Em cứ về nhà trước Đợi anh ở bên sông Anh làm no lòng mương Em làm vui ấm bản Nếu con gấu giẫm gãy cành bông trắng Lá lúa anh sẽ cứa đứt chân Nếu lúa này chuột, khỉ dám đến ăn Sợi bông em sẽ bay mù mắt nó Anh là rừng thẳm Em là suối sâu Cây rừng anh làm cầu Bắc ngang lên dòng suối Hoa sim nở đỏ chói Soi bóng xuống lòng em Nếu hùm về, suối em thành thác Nếu sói về, rừng anh sẽ thành chông Quyết chẳng chịu đau lòng Đời chúng ta rừng núi Suối em phá tan bóng tối Rừng anh chặn lại bão dông Để anh lớn mãi thành núi Mường Hung Em ngoan chảy thành dòng sông Mã. 2-1953 ----------------------------------