Chuyện thần bí xung quanh cái chết của quân sư Gia Cát Lượng

Thảo luận trong 'Truyện ngắn' bắt đầu bởi Khổng Minh Gia Cát Bụi, 21 Tháng 7 2012.

  1. (Lượt xem: 19,237)

    Chướng ngại lớn nhất cho việc nắm quyền lực của Gia Cát Lượng là ai? Thực không có gì phải nghi vấn, đó chính là Quan Vũ. Quan Vũ kiêu hùng đã sớm nổi danh. Năm Kiến An thứ 19 (năm 214), Lưu Bị tấn công Ích Châu, Mã Siêu ở Tây Lương tới đầu quân. Mã Siêu vốn là một hổ tướng có tiếng đương thời. Lưu Bị được bèn lập tức phong làm Bình Tây tướng quân, địa vị tương đương với Quan Vũ. Quan Vũ ở Kinh Châu nghe được tin cực kỳ bất mãn, lập tức viết thư cho Gia Cát Lượng “Như Siêu có thể so với ai?”. Gia Cát Lượng viết thư khéo léo đáp lại rằng: “Mạnh Khởi (Mã Siêu) tài kiêm văn vũ, dũng liệt hơn người, là hào kiệt một thời…. nhưng cũng chẳng sánh được với tướng quân…”. Quan Vũ đọc xong thư mà dương dương tự đắc.
    Năm Kiến An thứ 24 (năm 219) Lưu Bị tự xưng làm Hán Trung vương, muốn trọng dụng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân “Gia Cát Lượng bèn nói với tiên chủ: Danh vọng của Trung không thể cùng với Quan, Mã, nay lại tương vi. Mã, Trương ở gần có thể nói tường tận. Quan nay ở xa chỉ e không vui. Có nên hay chăng? Tiên chủ nói: Ta tự có cách giải thích” (Thục thư – Hoàng Trung truyện). Lưu Bị nói “Ta tự có cách giải”, thực ra chỉ là phái Ích châu tiền bộ Tư Mã Phí Thi đi trước. Tam Quốc chí - Phí Thi truyện viết: “Lưu Bị sai Thi tới phong Quan Vũ làm Tiền Tướng Quân, Vũ nghe được Hoàng Trung phong làm Hậu tướng quân bèn đại nộ mà rằng: Đại trượng phu sao có thể cùng sánh ngang với lão binh. Không chịu thụ phong”. Quan Vũ cuồng vọng tới thế, Gia Cát Lượng sao không trừng trị mà người lại còn lựa ý của Vũ để mà lấy lòng?
    Cô (ta) nay có Khổng Minh, như cá gặp nước, các người chớ nói nhiều. Vũ, Phi bèn thôi” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Có thể thấy Quan Vũ, Trương Phi vốn không đặt Gia Cát Lượng vào trong mắt mình, đối với Lưu Bị càng ngày càng thân với Gia Cát thì lòng không vui.
    Năm Kiến An thứ 13 Tào Tháo xuất quân xuống phía nam. Muốn một trận quét sạch Đông nam, Lưu Bị thân cô thế quả, lại không có chốn dung thân, tình hình ngàn cân treo sợi tóc. “Gia Cát Lượng năm đó 27 tuổi, tự dâng sách lược, thân đi sứ Tôn Quyền, cầu viện nơi Ngô hội, Quyền cũng có ý với Bị, lại them thấy Lượng kỳ nhã, càng thêm kính trọng lập tức sai ba vạn quân tới phù trợ Bị. Bị được đắc dụng cùng Vũ đế giao chiến, đại phá được quân địch, thừa thắng ruổi quân, Giang Nam được bình” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Trong trận Xích Bích, Gia Cát Lượng lập được đại công, không những củng cố lại địa vị trong tập đoàn Lưu Bị mà còn gây được uy tín. Quan Trương hai người cũng không còn dám xem thường nữa. Nhưng Quan Vũ từ sự khinh thị của quá khứ mà biến thành đố kị Gia Cát Lượng. Vương Phu Chi đối với việc này từng nói:
    “Chiêu Liệt bại ở Trường Bản mà quân của Vũ toàn vẹn, Tào Tháo qua sông, mà không một tay thi thố được. Mà Gia Cát công đông sứ, Lỗ Túc tây kết, định phân bang giao hai nước, Tôn thị phá Tào. Công không ở Vũ, mà ở Lượng. Lưu Kỳ nói : Triều đình dưỡng binh ba mươi năm mà nay đại công ở tay một nho sinh. Cho nên Vũ càng kị Gia Cát và kị Túc”.
    Quan Vũ và Trương Phi tính cách vốn không giống nhau “Vũ thiện đối đãi với sĩ tốt nhưng kiêu căng kinh bạc đối với sĩ đại phu, Phi thì yêu kính quân tử nhưng ghét kẻ tiểu nhân” (Thục thư – Trương Phi truyện). Trương Phi đối với những sĩ đại phu có tài năng thì mười phần kính trọng, nhưng Quan Vũ đối với sĩ đại phu thì khó chịu. Gia Cát Lượng lại là sĩ đại phu đứng đầu trong tập đoàn của Lưu Bị, đương nhiên cũng ở trong đó. Gia Cát Lượng đối với việc Quan Vũ coi thường mình cũng thực rõ ràng nhưng vì kị việc Vũ “tình như thủ túc” đối với chủ công, lại thêm rằng thời gian theo Lưu Bị so với Quan Vũ thì muộn hơn nhiều, quan chức cũng kém hơn Quan Vũ, nên không thể không khéo léo mà xử thế. Gia Cát Lượng tính toán không phải là như thế nào để trừng phạt Quan Vũ, mà là giải quyết vấn đề từ căn bản, chờ đợi thời cơ để giết Quan Vũ.
    Năm Kiến An thứ 24, Quan Vũ phát động chiến dịch Tương Phàn, tuy uy trấn Hoa Hạ, nhưng cuối cùng dẫn tới việc Kinh châu thất thủ, bản thân thì bị Tôn Quyền giết chết. Trong đó có rất nhiều điểm khiến người ta phải nghi ngờ.
    Trước và sau chiến dịch Tương Phàn, sứ giả hai nước Ngô, Ngụy qua lại không ngừng, cùng bàn mưu tấn công Quan Vũ, có thể nói là không dong trống mở cờ mà lặng lẽ phối hợp với nhau. Lưu Bị và Gia Cát Lượng đối với việc này hòa toàn không biết nên không hề ra một mệnh lệnh nào cho Quan Vũ. Điểm làm người ta nghi ngờ là, Khi Tào Tháo đem quân xuống Ma Bi, không ngừng điều khiển Vu Cấm, Bàng Đức, Từ Hoảng tới viện trợ Phàn thành, hành động quân sự lớn như thế, Thục Hán cũng không hề sử dụng bất cứ một đối sách nào. Cuối cùng Quan Vũ thất bại mà chạy ra Mạch Thành, trước cảnh toàn quân sắp bị tiêu diệt mà viện binh của Thục quân vẫn không thấy đâu. Điều này cũng là một điểm rất đáng nghi ngờ. Quốc học đại sư Chương Thái Viêm có kiến giải độc đáo rằng: “Bại ở Lâm Thư (nơi Quan Vũ bị giết) Gia Cát Lượng không lấy một tốt tới cứu viện. Kẻ ngu muội cười rằng không biết nhìn xa…”
    Họ Chương luận rằng Gia Cát Lượng bởi thấy “Quan Vũ là một hổ tướng… không trừ đi tất về sau sẽ khó trị được, nên không tiếc Kinh Châu, mượn tay người Ngô, để lấy mạng của Quan Vũ”. Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu, tay nắm trọng binh, cực kiêu ngạo cuồng vọng, không những đời sau (Sau khi Lưu Bị chết) khó đối phó, mà ngay khi Lưu Bị còn sống Gia Cát Lượng cũng khó lòng vượt qua được chướng ngại Quan Vũ. Muốn nắm được đại quyền. Gia Cát Lượng tình nguyện đánh đổi Kinh Châu, mượn tay người Ngô để trừ khử Quan Vũ.
    Kiến giải này của Chương thị thực là gan lớn. Đây đương nhiên chỉ là phỏng đoán. Họ Chương đối với những lí do nêu trên cho là chưa đủ, không lâu sau lại bổ sung thêm rằng: “Việc chính ở tay tiên chủ, Vũ Hầu đương sách hoạch việc an dân, chẳng thể lĩnh hết... Bại ở Kinh châu trước ở chỗ khinh Ngô, sau ở chỗ không có viện quân, đấy cũng chính là lỗi ở tiên chủ”.
    Đem việc bại ở Kinh Châu mà nói là do Lưu Bị có lòng khinh địch, thực hơi có phần khiên cưỡng. Khi đó thực là Gia Cát Lượng không thể quản hết được việc quân chính đại quyền nhưng rõ ràng Gia Cát Lượng biết việc Quan Vũ tấn công Tương Phàn vào lúc điều kiện chưa đủ chin muồi, hoàn toàn đi ngược lại với Long Trung đối là đợi thiên hạ có biến, và sách lược hai đường cùng bắc phạt Tào Ngụy. Nhưng trong Tam Quốc Chí chính văn và cả bản chú của họ Bùi thì đều không hề thấy ghi chép Gia Cát Lượng khuyên gián.
    Hơn nữa, cho dù Lưu Bị có sủng tín, thoải mái với Quan Vũ, không coi Long Trung đối là gì. Nhưng sau khi chiến dịch Tương Phàn chiến thắng, Lưu Bị, Gia Cát Lượng không thể không toàn lực quan sát từng bước của chiến dịch. Cho dù đường đi lối lại giữa Xuyên, Ngạc có cách trở, giao thông không tiện, tin tức truyền bá khó khăn, nhưng cả chiến dịch Tương Phàn từ tháng 7 năm Kiến An thứ 24 tới tháng 12 thì kết thúc, thời gian dài gần một nửa năm. Thục Hán bây giờ là một chính quyền hoàn chỉnh, không thể thiếu những con đường truyền tin. Quan Vũ tiến công Tương Phàn, giữ Kinh Châu binh lực không đủ, lại thêm lúc này liên minh Tôn Lưu đã bị phá vỡ, “bọ ngựa bắt ve, chim sẻ ở sau”, Tôn Ngô lúc nào cũng có thể tới cướp Kinh Châu. Gia Cát Lượng là người hiểu thấu binh pháp, chẳng nhẽ cũng không biết việc này?
    Ai cũng đều biết Gia Cát Lượng một đời làm việc cẩn thận, không hề có chuyện mạo hiểm. Sao lại không nhắc nhở Lưu Bị đây? Phương Thi Minh tiên sinh trong Lưu Bị và Quan Vũ đã làm biến đổi nguyên ý của Chương Thái Viêm tiên sinh, đem “Gia Cát Lượng không trừ Quan Vũ tất đời sau khó trị được” mà đổi thành “Lưu Bị không trừ (Quan Vũ) thì đời sau khó trị được”. Cách “ghép cành” này thực không thể được. Tôi cho rằng chỉ cần Gia Cát Lượng làm đúng chức trách của một quân sư, lúc nào cũng có thể đem tình thế nguy hiểm của Kinh Châu mà nói với Lưu Bị. Lưu Bị cùng Quan Vũ tình thân như thủ túc, không thể nào chỉ có đứng nhìn việc Quan Vũ chiến bại ở Lâm Thư mà không một binh một tốt cứu viện. Cho nên người thực sự đưa Quan Vũ lên đoạn đầu đài không phải ai khác mà là chính là Gia Cát Lượng.
    Chức thừa tướng, Gia Cát Lượng là lựa chọn cuối cùng?
    Sau khi Quan Vũ chết, địa vị và quyền lực của Gia Cát Lượng được nâng cao rõ rệt nhưng vẫn chưa tới mức “trên vạn người, dưới một người”. Sau khi vào Thục, Lưu Bị tín nhiệm Pháp Chính hơn hẳn Gia Cát Lượng. Đối với điều này Gia Cát Lượng cũng rất rõ. Lưu Bị Đông Chinh “phục nỗi nhục Quan Vũ”, quần thần thay nhau khuyên gián, Lưu Bị nhất loạt đều không nghe. “Năm Chương Vũ thứ 2 đại quân thất bại, trú ở Bạch Đế, Lượng than rằng: Pháp Hiếu Trực (Pháp Chính) nếu còn, chắc có thể ngăn được chủ công Đông hành, dù có Đông hành cũng không tới nguy địa thay!” (Thục thư – Pháp Chính truyện). Đối với việc Lưu Bị phát động cuộc chiến ở Di Lăng, Gia Cát Lượng có ngăn cản hay không, bởi sử không chép nên không thể biết được. Nhưng từ lời nói trên có thể thấy được rằng Pháp Chính ở trong lòng Lưu Bị thực Gia Cát Lượng không thể bằng!
    Lưu Bị nhập Xuyên chủ yếu là nhờ công Pháp Chính, Pháp Chính không những trợ giúp Lưu Bị lấy được Ích Châu, định Hán Trung, kiến lập được công lao trác việt, lại “có thừa trí thuật, hiểu ý chủ nhân”. “Tiên chủ cùng với Tào công tranh, thế có bất lợi, nên lui, nhưng tiên chủ đại nộ mà không chịu lui, bèn không dám can gián nữa. Tên bắn như mưa, Chính bèn lên phía trước tiên chủ, tiên chủ nói rằng “Hiếu Trực che tên” Chính nói “Minh công là giường cột sao có thể giống với bọn tiểu nhân được” Tiên chủ bèn nói “Hiếu Trực, ta với ngươi cùng đi”…
    Từ đó đủ thấy Pháp Chính đối với Lưu Bị có thể nói là lấy thân tương trợ, việc việc đều thủ tín với Bị. Công phá được Thành đô Lưu Bị phong Chính là Thục quận thái thú, Dương Vũ tướng quân, ngoài giữ chốn kinh kỳ, trong làm mưu thần… Pháp Chính thân kiêm chức vụ trọng yếu ở trong ngoài, cũng chính là sự thể hiện của việc Lưu Bị cực kỳ tín nhiệm. Có người nói với Gia Cát Lượng rằng :
    “Pháp Chính làm thái thú Thục quận mà tung hoàng, tướng quân nên khởi bẩm chủ nhân, giảm bớt uy khí. Lượng đáp rằng: Chủ nhân phía bắc sợ Tào Tháo thế mạnh, đông sợ Tôn Quyền bức hiếp, gần đây lại thêm việc của Tôn phu nhân, tiến thoái khó khăn, Pháp Hiếu Trực lại là người phù trợ, sao có thể ngăn được Pháp chính không làm theo ý mình được” (Thục thư – Pháp Chính truyện)
    Gia Cát Lượng phản ánh tình hình thực tế đương thời, nhưng cũng có thể thấy đây chính là Gia Cát Lượng tự trào lộng mình. Một mặt là Pháp Chính tung hoành ngang dọc không coi Gia Cát Lượng vào mắt; một mặt chính là Gia Cát Lượng đối với việc Pháp Chính tung hoành, tác uy tác phúc cũng đành bất lực.
    Pháp Chính tung hoành ngang dọc Gia Cát Lương đương nhiên không vui. Nhưng làm thế nào để làm giảm quyền thế, Gia Cát Lượng tự có sự tính toán. Lưu Bị cùng với Tào Tháo tranh đoạt Hán Trung bởi binh lực không đủ nhưng vẫn “yêu cầu phát binh, Quân sư Gia Cát Lượng bèn hỏi Dương Hồng, Hồng đáp: “Hán trung là yết hầu của Ích Châu, việc tồn vong vốn nằm ở đó, nếu không có Hán Trung ắt không có Thục, đấy cũng chính là cái họa từ cửa vào vậy. Việc như nay, đàn ông đương chiến, đàn bà làm vận lương, phát binh còn nghi ngờ gì?”. Khi đó Thục quận thái thú Pháp Chính theo tiên chủ bắc hành, Lượng trong biểu dâng muốn phong Hồng tạm giữ chức Thục quận thái thú, mọi việc đều được làm tốt thì có thể lĩnh luôn chức vụ” (Thục thư- Dương Hồng truyện).
    Hán Trung là “yết hầu của Ích Châu”, việc được mất liên quan tới sự tồn vong của chính quyền Thục Hán. Việc này chẳng nhẽ Gia Cát Lượng không hay? Đối với việc yêu cầu phát binh gấp thì chính là mệnh lệnh của Lưu Bị, sao có thể chống lại? Gia Cát Lượng hỏi Dương Hồng mục đích chỉ có một đó chính là mượn cơ hội để tiến cử Dương Hồng vào việc lo phát binh, tiện cho việc thay thế Pháp Chính làm Thục quận thái thú. Trong tình thế Pháp Chính không ở đó Lưu Bị cũng đành chấp nhận. Dương Hồng kịp thời đưa quân dội, lương thảo vật tư tới tiền tuyến là Hán Trung, nếu việc làm tốt có thể giữ nguyên chức Thục quận thái thú. Pháp Chính mất đi vị trí quan trọng là bên ngoài giữ chốn kinh kỳ, quyền thế bị giảm đi phần lớn.
    Nhưng mâu thuẫn giữa Gia Cát Lượng và Pháp Chính vẫn chưa hết. “Gia Cát Lượng và Chính, tuy tính không giống nhau nhưng lấy công mà hỗ trợ”. Cái gọi là “lấy công mà hỗ trợ” thực ra chỉ là bề mặt, nhưng “tính không giống nhau” mới là bản chất. Đối với sự thông minh tài trí của Pháp Chính, Gia Cát Lượng cũng thực sự kính phục: “Trí thuật của Chính làm Lượng cảm thấy tài lắm” (Thục thư- Pháp Chính truyện). Càng quan trọng hơn nữa Pháp Chính là người duy nhất trong đám mưu thần mà có thể nói Lưu Bị nghe được. Điểm này chính Gia Cát Lượng cũng cho là không bằng. Bởi thế nếu như Pháp Chính sống lâu ắt hẳn mâu thuẫn sẽ còn hơn nữa.
    May mắn cho Gia Cát Lượng chính là năm thứ 2 khi Lưu Bị xưng Hán Trung Vương, thì Pháp Chính bệnh mà qua đời. Khi Lưu Bị xưng đế thì Quan Vũ, Bàng Thống, Pháp Chính, Hoàng Trung đều đã mất. Trương Phi tuy nhiên là tình thủ túc với Lưu Bị nhưng dẫu sao cũng chỉ là một viên võ tướng. Mã Siêu là tướng hàng, tâm thường mang lòng phản trắc, càng không đáng tín nhiệm. Thái phó Hứa Tĩnh lại là người thanh đạm. Lưu Bị ngó trước sau, ngoài Gia Cát Lượng thì không ai có thể giao được trọng trách lớn. Từ khi tức vị liền phong Gia Cát Lượng làm Thừa tướng, sau khi Trương Phi chết lĩnh chức Tư lệ hiệu úy. Gia Cát Lượng phấn đấu mười lăm năm, cuối cùng cũng leo lên được cái ghế Thừa tướng của mình thực ra cũng chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của Lưu Bị?
    Tiếu Chi (báo điện tử VietNamNet - theo Quang Minh nhật báo)
    Gia Cát Lượng đã mượn đao giết Quan Vũ?
    [IMG]
    Quan Vũ
    Lâu nay người ta vẫn coi Khổng Minh như một biểu tượng của của tài trí, mưu lược và cả sự chính nghĩa. Thực tế, trong cách nhìn mang tính lịch sử, Khổng Minh trước hết vẫn là một kẻ làm chính trị đúng theo nghĩa thực của từ này. Tại sao Khổng Minh bái Lưu Bị làm chủ? Lý do hẳn đã vì nhà Hán? Tại sao Khổng Minh thấy Quan Vũ chết mà không một binh một tốt cứu viện?... Vẫn còn rất nhiều sự kiện lịch sử khiến hậu nhân phải nghi ngờ. Bài viết dưới đây của giáo sư Chu Tử Ngạn là một cách lý giải khác về những sự kiện lịch sử còn đầy những tồn nghi đó.
    Chọn Lưu Bị, Khổng Minh vì mình trước nhất?
    Gia Cát Lượng ở Long Trung, tự xưng mình “chỉ mong bảo toàn tính mệnh thời loạn, chẳng cầu tiếng tăm nơi chốn chư hầu” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện), nhưng thực ra lại là kẻ lòng mang đầy chí lớn. Từng nói với Mạnh Thao, Từ Thứ, Mạnh Kiến rằng: “Ba người ắt làm quan tới thích sử, quận thú vậy”. Khi đó ba người bèn hỏi Gia Cát Lượng làm quan tới bậc nào? Lượng chỉ cười mà không đáp (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện” chú dẫn Ngụy lược). Cười mà không đáp là cớ gì? Bởi quan là thích sử hay quận thú đều không ở trong mắt của Lượng, trí lớn sao đã vội có thể nói cho người khác nghe được.
    Gia Cát Lượng có tài kinh luân tế thế “Mỗi lần đều tự sánh mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Tuy nhiên Quản, Nhạc vốn chưa phải là người kiến công cái thế, làm quan chẳng qua cũng chỉ là tướng dưới tay chư hầu mà thôi. Gia Cát Lượng chí cao, tự sánh với Quản, Nhạc cũng có thể chỉ đơn thuần là mục tiêu nhỏ. Nếu lấy tình thế đương thời mà xét, cũng không loại trừ khả năng Gia Cát Lượng cũng có trí tranh đoạt thiên hạ, hùng tâm xây dựng nghiệp bá.
    Những năm cuối Đông Hán, triều cương hỗn loạn, các chư hầu tranh nhau khởi binh. Xưng cô, gọi quả (xưng đế, xưng vương) cũng chẳng ít. Tào Tháo, Viên Thiệu, Tôn Sách, Tôn Quyền, Lưu Bị đều mang trong mình chí lớn quét sạch bốn bể mà thống nhất thiên hạ. Chẳng lẽ Gia Cát Lượng lại không bằng họ? Chẳng lẽ chỉ có thể làm thần tử mà không thể xưng vương?
    Đáng tiếc ở chỗ, Gia Cát Lượng xuất sơn quá muộn (So với Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Bị thì muộn hơn ít nhất hai mươi năm). Gia Cát Lượng chưa rời khỏi Long Trung “Tào Tháo đã có bách vạn hùng binh, ép thiên tử mà lệnh chư hầu, Tôn Quyền đã đóng ở Giang Đông tới ba đời, thế nước hiểm mà lòng dân thì theo, lại được hiền tài phò tá” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Những thế lực quân phiệt khác như Lưu Biểu thì nắm Kinh Châu, “đất dài ngàn dặm, mang binh giáp hơn mười vạn” (Ngụy Thư - Lưu Biểu truyện), Lưu Chương chiếm cứ Ích Châu, Chương Lỗ giữ Hán Trung, Mã Đằng, Hàn Toạn xưng hùng ở Quan Trung.
    Mười ba châu của nhà Hán đã bị các lộ chư hầu chiếm cứ hết, Gia Cát Lượng đã mất đi cơ hội để độc bá một phương tự xưng chư hầu. Lòng mang tài kinh bang tế thế, để có thể xưng nghiệp vương bá như Gia Cát Lượng nếu muốn leo lên đỉnh cao của quyền lực, con đường duy nhất chỉ có thể là chọn chủ mà phục vụ. Đây đối với Gia Cát Lượng cũng chính là lùi để mà tiến. Điều này, Lượng cũng như Tư Mã Ý, thờ chủ thực tế cũng chỉ là một thủ đoạn để thực hiện mục tiêu chính trị của mình thôi.
    Điều đáng nói ở đây chính là tiêu chuẩn của chủ mà Gia Cát Lượng chọn là gì? Tôi cho rằng, Gia Cát Lượng chọn chủ không ngoài 2 điều: Một là chủ nhân phải là một minh quân có hùng tài đại lược. Hai là, bản thân phải chắc chắn thành cánh tay của chủ, phải được chủ nhân đặc biệt trọng dụng.
    Từ Long trung đối (cuộc đối thoại ở Long Trung) có thể thấy, Gia Cát Lượng đối với anh hùng trong thiên hạ đã nắm rõ trong lòng bàn tay. Lưu Biểu, Lưu Chương, Trương Lỗ… những kẻ bất tài vô năng này không đáng để suy xét. Những vị minh quân đáng suy xét đối với Gia Cát Lượng không ngoài ba người “Tào Tháo, Tôn Quyền, Lưu Bị”. Từ tình thế chính trị lúc bấy giờ mà nói, kẻ có khả năng nhất thống thiên hạ là Tào Tháo, vì sao Gia Cát Lượng lại không lựa chọn? Đây thực cũng chẳng phải vì Tào Tháo “danh là tướng nhà Hán, mà thân thực là giặc nhà Hán”. Gia Cát Lượng không lựa chọn Tào Tháo chính vì Trung Nguyên quá nhiều nhân tài, Tào Tháo sau khi bình định phương Bắc đã không còn như thời mới khởi binh nữa, mãnh tướng, mưu thần trong tay lúc này nhiều như mây. Gia Cát Lượng mới ra khỏi lều cỏ mà muốn được thăng tiến trong Tào Tháo bá phủ đâu phả là chuyện dễ dàng. Đối với chuyện này, Gia Cát Lượng đã thực sự hiểu rõ.
    Khi người bạn Mạnh Kiến có lòng nhớ nhà, muốn trở về Trung nguyên mà tìm công danh, Gia Cát Lượng từng khuyên rằng “Trung Quốc nhiều sĩ đại phu, rong chơi hà tất phải là cố hương”. Về sau Gia Cát Lượng thảo phạt Ngụy bắt được Từ Thứ đang nhậm chức Ngự sử trung thừa, Thạch Thao nhậm chức Quận thú thì cảm khái mà nói: “Ngụy nhiều kẻ sĩ nên coi thường mà chẳng dùng hai người này sao!” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Gia Cát Lượng vì Từ, Thạch hai người mà nói lên bất bình (thực tế hai người làm quan tới hai nghìn thạch, không thể nói là Tào Tháo không hề trọng dụng), chưa từng vì chuyện mình không theo Ngụy mà cảm thấy vinh hạnh!
    Bằng con mắt trí tuệ của Gia Cát Lượng đương nhiên cũng có thể biết Tôn Quyền là người chủ có hùng tài đại lược, huống hồ anh trai là Cẩn cũng đang giữ chức ở Đông Ngô. Nhưng khi trọng thần Trương Chiêu tiến cử với Ngô chủ thì Gia Cát Lượng lập tức từ chối mà rằng “Tôn tướng quân là chủ, xem thấy đức độ,có thể dùng Lượng nhưng không thể dùng hết Lượng, nên ta chẳng thể ở” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện, dẫn chú Viên tử)
    Vì sao cuối cùng Gia Cát Lượng lại chọn Lưu Bị? Lưu Bị có hùng tài, biết người lại giỏi dụng tự nhiên là điều kiện tốt để Gia Cát Lượng tuyển chủ. Lại thêm Bị đang cầu hiền như khát nước, ba lần tới lều tranh. Gia Cát Lượng “do lòng cảm kích, mà theo Tiên đế” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Ngoài những điều đó, những lời bàn khác đều cho là Gia Cát Lượng có lòng với nhà Hán, cùng với Lưu Bị chủ yếu chính là kiến lập trên lập trường “phò Lưu yên Hán”: “Vận Hán sắp mất nên lấy việc hưng suy kế tuyệt làm nhiệm vụ của mình” (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện, Bản chú của Bùi Tùng). Bản chú của Bùi Tùng được rất nhiều sử gia dẫn dụng, để luận chứng cho việc Gia Cát Lượng có lòng “phục hưng Hán thất”, lấy đó làm nhiệm vụ của mình.
    Đối với phân tích này tôi cho có phần không hẳn là như vậy. Vào giữa Đông Hán hoạn quan, ngoại thích thay nhau chuyên quyền chấp chính, triều chính ngày một suy vi. Những năm cuối Đông Hán, Đổng Trác làm loạn, quân phiệt chiến loạn, Triều đình nhà Hán chỉ còn những hơi thở cuối. Trong Sử sách có nói: “Từ An đế tới nay, quốc thống suy vi, duy chỉ còn tiếng, tấc đất ngọn cỏ đã không còn là của nhà Hán, kỳ vận đã mất từ lâu” (Ngụy thư - Vũ Đế Kỷ, dẫn chú Ngụy Lược). Đối với tình hình này, người thông minh như Gia Cát Lượng chẳng nhẽ nhìn không ra hay sao?
    Gia Cát Lượng không theo Tôn Quyền lý do rất đơn giản, là vì Tôn Quyền “có thể dùng Lượng nhưng không thể dùng hết Lượng” chứ không phải vì Tôn Quyền họ Tôn không phải họ Lưu. Rốt cuộc vì sao Gia Cát Lượng lại phò tá cho Lưu Bị, một kẻ chạy đông chạy tây, dưới trướng người khác, không một tấc đất mà lập nghiệp?
    Xưa nay hầu như tất cả các nhà chính luận đều chưa tìm hiểu sâu về điều bí mật này, phần lớn đều cho rằng Gia Cát Lượng nhìn xa trông rộng, không quan tâm tới thực lực quân sự và hiền tài dưới trướng của Lưu Bị, hoặc Lưu, Gia Cát kết hợp là bởi hai người trí lớn hợp nhau. Kỳ thực, điểm thú vị ở đây là ở chỗ, những điểm yếu, những chỗ thiếu của Lưu Bị trong mắt của Gia Cát Lượng lại là ưu thế. Thử nghĩ, nếu Lưu Bị cũng như Tào Tháo binh nhiều thế mạnh, nhân tài như mây, Gia Cát Lượng còn có thể được trọng dụng như thế không? Chính bởi dưới tay Lưu Bị, võ tướng chẳng qua chỉ là Quan Vũ, Triệu Vân, Trương Phi. Mưu thần chũng chẳng qua có Phí Trúc, Tôn Càn, Giản Ung vài người… Tập đoàn của Lưu Bị hiếm người tài như thế, cũng chính là một vũ đài rộng lớn để Gia Cát Lượng thi thố tài năng của mình.
    Điều kiện để xuất sơn của Gia Cát Lượng rất cao. Chủ không những phải biết hiền, mà còn phải biết tận (dụng hết). Hai chữ “Hiền”, “Tận” ngụ ý sâu xa. Hiền – tức phải coi Gia Cát Lượng thành hiền sĩ, quy cách đối với hiền sĩ cao nhất đó chính là đối đãi với quốc sĩ. Như Trí Bá đối với Dự Nhượng thời Xuân Thu, Yên Chiêu Vương đối với Quách Hòe thời Chiến Quốc. Đối với Gia Cát Lượng điều này vốn là chẳng đủ. Mà Tận lượng thì thật khó dùng một hai câu mà biểu đạt ý mình. Gia Cát Lượng rất cao ngạo, tuy đang còn trẻ, lại mới ra khỏi lều tranh nhưng tuyệt đối không định từng bước từng bước làm những công việc thấp kém, mà muốn phải ở ngay vị trí cao. Nếu muốn dùng hết tài của Lượng thì phải đặt tới vị trí nắm trọng quyền trong triều chính.
    Gia Cát Lượng nằm ở Long Trung, tuy được những danh sĩ như Tư Mã Huy, Bàng Đức công tiến cử, ở Kinh Tương cũng có một chút danh tiếng nhưng nhiều kẻ vẫn không cho là thế. Lượng “mỗi lần nói đều tự sánh mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị, người đương thời đều không cho là vậy”. Chỉ có vài người bạn cho là như vậy mà thôi (Thục thư - Gia Cát Lượng truyện). Đối với những khu vực như Trung Nguyên, Giang Nam đều không nói tới, vẫn chỉ là một nhân vật vô danh mà thôi.
    Khi còn chưa thành danh Gia Cát Lượng đã muốn chủ nhân sử dụng phải Tận. Tâm cao khí ngạo là thế đối với những tập đoàn đã có đầy thực lực như Tào, Tôn thì không thể đạt được. Đối với Lưu Bị thì hoàn toàn khác. Lưu Bị tuy quan đã là tả tướng quân, Dự Châu mục. Theo chế độ của nhà Hán, tướng quân, châu mục đều có thể mở phủ mà tham chính, nhưng dưới trướng Lưu Bị nhân tài thiếu thốn. Triệu Dực từng nói “Nhân tài thời nay đã bị hai nước Ngụy, Ngô thu hết vậy”. Trong con mắt của Gia Cát Lượng, đây lại chính là “ưu thế” của Lưu Bị mà các thế lực chư hầu khác không thể bằng được. Cho nên Gia Cát Lượng đã đầu thân cho Lưu Bị.
    Quan Vũ chết trận, lỗi tại Khổng Minh?
    Kỳ thực Gia Cát Lượng sau khi đầu thân vào tập đoàn Lưu Bị thì địa vị và quyền lực dần dần được nâng lên rõ rệt. Sau trận Xích Bích (năm 208), Lượng làm Quân sư trung lang tướng, bổng lộc tương đương hai ngàn thạch (120 tấn thóc). Lưu Bị lấy được Ích châu, Lượng thăng làm Quân sư tướng quân, bổng lộc lên tới hai ngàn thạch. Năm thứ 5 Kiến An (năm 200) Quan Vũ được phong làm Thiên tướng quân, Hán Thọ Đình Hầu. Sau Xích Bích, Vũ làm Đãng khấu tướng quân, bổng lộc hai ngàn thạch. Lưu Bị xưng Hán Trung vương, Vũ làm Tiền tướng quân, chức chỉ dưới tam công. Trương Phi ở năm Kiến An thứ 4 làm Trung lang tướng, Sau Xích Bích làm Chinh Lỗ tướng quân, Nghi Đô thái thú, bổng lộc là hai ngàn thạch. Lưu Bị xưng Hán Trung Vương thăng Phi làm Hữu tướng quân, (Thục thư – Trương Phi truyện) vị dưới Tam công.
    Có thể thấy, trước khi Lưu Bị xưng đế Quan Vũ, Trương Phi địa vị đều cao hơn Gia Cát Lượng. Đối với những người khác như Triệu Vân, Bàng Thống, Pháp Chính, Hoàng Trung, Mã Siêu đều không dưới Gia Cát Lượng, đúng như đại đa số các sử gia đều nói rằng quan hệ giữa Lưu Bị và Quan Vũ, Trương Phi có hơn Gia Cát Lượng một bậc. Bọn họ “ ngủ nghỉ cùng giường, tình thân như anh em” (Thục thư – Quan Vũ truyện). Cho nên bất kỳ người nào vào tập đoàn Lưu Bị đều chỉ có thể ở dưới ba người này mà thôi.Đối với người một lòng muốn hơn vạn người, có lòng giành đoạt thiên hạ như Gia Cát Lượng mà nói đây chính là một chướng ngại lớn trên bước đường hoạn lộ của mình.
    Kỳ thực Lưu Bị đối với Gia Cát lượng không phải ngay từ đầu đã coi là tâm phúc, quân thần như cá với nước. Xông pha gần nửa đời, trải gần mười năm chiến loạn rèn rũa, Lưu Bị bây giờ đã là một chính trị gia lão luyện, trước khi Gia Cát Lượng xuất sơn, Bị không thể tính hết được năng lực của Lượng là cao hay thấp, cho nên Lưu Bị lấy được Kinh Châu, bốn quận Giang Nam, không hề cho Gia Cát Lượng giữ chức trọng yếu trong quân chính mà cho làm chức thu thuế vụ ở ba quận Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương để bổ sung quân lực mà thôi.
    Nhận thức lại Long Trung đối cũng chỉ rõ rằng: “Lưu Bị vốn không lấy Long Trung đối làm phương lược, đương nhiên cũng không đặt Gia Cát Lượng vào địa vị vận trù mưu lược trong màn chướng. Trước khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng một thời gian dài không ở bên Lưu Bị, những việc đại chính đều không phải trong thời gian Gia Cát Lượng tham tán. Quyết kế vào Thục, phản công Lưu Chương là mưu của Pháp Chính, Bàng Thống, Lượng ở Kinh không tham dự vào việc nhập Thục. Cho nên những việc quan trọng này là đúng hay sai đều không có liên can tới Lượng”. Tôi cho rằng những lời này của Điền tiên sinh là chính xác. Chỉ rõ Gia Cát Lượng trong một thời gian dài hoàn toàn không phải là nhân vật số 1 dưới trướng của Lưu Bị.
    (sưu tầm)
    Administrator thích bài này.
  2. Facebook comment - Chuyện thần bí xung quanh cái chết của quân sư Gia Cát Lượng

  3. Khổng Minh vì sao trọng dụng Trương Phi mà xa rời Quan Vũ?- Sách Lược Dùng Người

    Trong ba anh em Lưu Quan Trương, ngoại trừ Lưu Bị rất thân cận với Khổng Minh, trong hai người còn lại Trương Phi là kẻ lỗ mãng, ít suy nghĩ sâu xa còn Quan Vũ luôn tỏ ra thâm trầm. Xét theo lý, một kẻ trí giả như Khổng Minh ắt phải thân cận và trọng dụng Quan Vũ hơn Trương Phi. Nhưng thực tế thì Khổng Minh lại rất trọng dụng thân mật với Trương Phi mà xa rời thậm chí là nghi kị với Quan Vũ. Vì sao như vậy? Điều này có lẽ phải xuất phát từ chính đặc điểm xuất thân của từng người mới mong lý giải được.
    Tam Quốc chí khi nhận xét về Trương Phi, Quan Vũ nói: “Vũ trọng sĩ tốt mà nghi kị sĩ đại phu, Phi yêu kính kẻ quân tử mà phớt lờ kẻ tiểu nhân”.
    [IMG]
    Gia Cát Lượng đối với Quan Vũ luôn cố gắng giữ một mối quan hệ rất khách khí, tốt đẹp. Bởi vì Quan Vũ không hoàn toàn phục vị quân sư này. Phương kế liên kết với Ngô của Khổng Minh, Quan Vũ có thực hiện nhưng không hề cố gắng, đó là một minh chứng rất rõ. Thậm chí, Quan Vũ trong nhiều trường hợp còn cố gắng đi ngược lại với phương hướng này. Tuy Quan Vũ ở Kinh Châu xa xôi nhưng người này trước nay vẫn lấy địa vị cao hơn những người khác trong tập đoàn quân Thục của mình để ra oai. Sau khi Mã Siêu đầu quân cho Thục nhờ giải quyết vấn đề Ích Châu mà lập được công lao, nhận được vinh dự lớn. Quan Vũ không phục, muốn bỏ Kinh Châu đến Tứ Xuyên để so tài cao thấp với Mã Siêu. Gia Cát Lượng vội gửi cho ông ta một bức thư vỗ về, nịnh ông ta hết lời mới làm ông ta nguôi ngoai. Sau khi Lưu Bị làm Hán Trung Vương, muốn dùng Hoàng Trung làm hậu tướng quân. Gia Cát Lượng nói: “Danh vọng của Trung, vốn không thể so được với Quan Vũ, Mã Siêu mà nay để họ đứng ngang hàng. Mã Siêu và Trương Phi ở gần, tự mình nhìn thấy công trạng của Hoàng Trung còn có thể chỉ rõ được. Như Quan Vũ ở xa, sợ tất là không vui, e rằng không được”. Câu nói này có thể thấy được thái độ của Gia Cát Lượng đối với Quan Vũ như thế nào.
    Trương Phi thì không như vậy, chỉ cần Gia Cát Lượng nhắc đến tên ông ta là ông ta dốc hết lòng mà làm. Đồng thời, nhiều lần cũng phát huy tính sáng tạo lập nên kỳ công. Vì thế giữa Gia Cát Lượng và vị tướng lỗ mãng Trương Phi hình thành một mối quan hề ngầm không nói mà vẫn hiểu nhau. Khi có tin tức báo về doanh trại, nói gần đây Phi uống rượu say, Gia Cát Lượng không những không tăng thêm tội còn phái người mang rượu đến cho Trương Phi. Điều này cho thấy giữa họ có một sự thấu hiểu và cảm thông không nói thành lời.
    [IMG]
    Ban đầu khi Lưu Quan Trương khởi sự, theo địa vị kinh tế, xã hội, Trương Phi là người giàu có nhất, “sống ở quận Trạch, có trang điền”, là một chủ trang viên có tài sản và tiền của. Còn Lưu Bị chẳng qua chỉ là một kẻ “bán giày đan chiếu”, mặc dù tự xưng là hậu duệ của hoàng thất nhưng đã bị suy tàn từ lâu. Nếu như cứ mãi đem hai chữ hậu duệ hoàng thất trưng ra thì so với câu nói của AQ “bố mày trước kia cũng giàu có” chẳng khác là bao. Sau đó Hán Hiến đế Lưu Hiệp có gọi ông ta một tiếng “Hoàng thúc”, nhưng là do nhu cầu chính trị mà thôi. Các Hoàng đế trong lịch sử để lung lạc nhân tâm vẫn thường có thói quen ban thưởng họ của vua vì thế đừng có tưởng thật. Ai có phấn mà chẳng đem đắp lên mặt? Lưu Bị chẳng qua chỉ là một người thuộc tầng lớp tiểu thủ công. Còn Quan Vũ thực ra chỉ là một người chuyên đẩy xe hàng mà thôi. Theo quan niệm ngày nay, ông ta thuộc tầng lớp lao động không có tài sản.
    Từ đó mà suy luận thì mối quan hệ giữa Gia Cát Lượng và ba anh em Lưu Quan Trương sợ là do tầng lớp xuất thân bất đồng mà thái độ đối đãi với phần tử trí thức không tránh được sự khác biệt. Điều này có lẽ cần được thảo luận một cách kỹ lưỡng hơn.
    Khi khởi sự Lưu Bị đã là một người thuộc tầng lớp thủ công nghiệp kiêm tiểu thương nhưng trước đó ông ta thuộc tầng lớp quý tộc sa sút, chí ít vẫn còn có chỗ đứng nhất định. Lưu Bị từng bái Lư Thực làm thầy, rõ ràng trình độ văn hóa của ông ta cao hơn hẳn so với Quan Vũ và Trương Phi. Như thế Lưu Bị không những giống với Khổng Minh về mặt chính trị mà về mặt văn hóa cũng có rất nhiều điểm tương đồng. Trương Phi là chủ điền viên, gia đình giàu có. Có thể tụ tập hơn ba trăm người ở vườn đào thì dù cho không phải là sĩ tộc tầng lớp trên cũng là một thân hào có của. Vì thế Trương Phi so với Khổng Minh, người có gia trang ở Nam Dương về nền tảng kinh tế không khác nhau nhiều nên cũng dễ dàng tìm thấy tiếng nói chung. Còn Quan Vân Trường là một người không có tài sản, tự sống bằng sức lao động của mình. Nghề đẩy xe chở hàng của ông ta không cần dựa vào phường hội, rất độc lập nên dễ sản sinh ra cách nhìn thiên lệch giai cấp. Đồng thời bản thân ông ta cũng chỉ biết vài chữ nên không phục văn hóa và tầng lớp sĩ đại phu. Vì vậy mối quan hệ giữa ông ta với Gia Cát Lượng không được như hai vị anh em của mình là điều không khó giải thích.
    [IMG]
    Lại thêm Quan Vũ kiêu ngạo tự mãn, cố chấp, luôn tự cho mình là đúng. Đặc biệt là từ sau khi ông ta được phong làm Hán đình hầu thì cảm giác tự tôn tự ngã của ông ta càng tăng thêm. Đến khi một mình lãnh tránh nhiệm lớn bảo vệ Kinh Châu thì ông ta càng trở thành kẻ mà “mục hạ vô nhân” (trong mắt không có ai). Đây là việc khiến người khác chê cười nhưng đối với Quan Vũ thì rất đáng tiếc. Nếu như Quan Vũ có một chút tỉnh ngộ thì đã không chạy đến Mạch Thành để đến nỗi đầu thân mỗi thứ một nơi như vậy.
    Gia Cát Lượng tới Tân Dã, Quan Trương kết hợp cùng nhau ngăn cản vị quân sư này nhưng người trách mắng là Trương Phi còn Quan Vũ là một người thích tỏ ra thâm trầm, ngồi ở phía sau xui khiến Trương Phi. Từ sau “ba lần đến lều tranh”, Quan Vũ không hề tin vào năng lực của Gia Cát Lượng. Ông ta vốn xưa nay không hề có cảm tình với tầng lớp trí thức và điều này khó bề thay đổi được. Quan Vũ từ đẩy xe trên đường Sơn Tây, những vị quan lại triều Hán đã áp bức ông ta, lừa dối ông ta khiến ông ta luôn có ý thức nghi kỵ và phản kháng. Trong tâm ông ta luôn nói, có gì giỏi giang lắm đâu, toàn là một lũ tởm lợm, giá áo túi cơm. Khi thấy Lưu Bị nhọc lòng “ba lần đến lều tranh”, Quan Vũ nói với Lưu Bị rằng: “Huynh trưởng hai lần đích thân đến bái kiến, cái lễ đó là quá lắm rồi. Nghĩ rằng Gia Cát Lượng chỉ có hư danh mà không có thực học nên mới cố tránh mặt mà không gặp. Sao huynh lại bị mê hoặc bởi con người này như vậy!”. Chữ “mê hoặc” là câu nói từ trong lòng của Quan Vũ. Bởi vì một khi Khổng Minh trợ giúp Lưu Bị thì địa vị trợ thủ lâu nay của ông ta sẽ bị lung lay. Từ đó trở đi giữa ông ta và Lưu Bị không thể có sự thân cận như trước được nữa.
    Khi Lưu Bị sang Đông Ngô cầu thân, Gia Cát Lượng phái Triệu Vân đi theo bảo vệ mà không dám trao túi gấm diệu kế cho Quan Vũ sợ Quan Vũ làm loạn chủ trương của mình. Sau khi mượn gió Đông cho Chu Du, làm nên trận Xích Bích nổi tiếng, Gia Cát Lượng cũng sắp xếp Triệu Vân đến đón ông ta trở về chứ không dám làm phiền đến Quan lão gia, sợ ông ta chưa chắc đã theo hẹn mà tới, sẽ nguy hiểm đến tính mạng của mình. Chiến dịch Xích Bích, Gia Cát Lượng lần lữa không để ý đến Quan Vũ. Nhiều người nói là do Gia Cát Lượng cố ý dùng kế khích tướng đối với Quan Vũ. Nhưng thực tế xét trong mối quan hệ giữa hai người thì rõ là vị quân sư này vẫn còn có chỗ khó xử. Vì sử sách cũng không có ghi chép gì, đành phải tin bừa như vậy. Nhưng cuối cùng Gia Cát Lượng mới sắp xếp Quan Vũ chặn ở đường Hoa Dung có thể thấy là đối với vị tướng kiêu ngạo này không thể không cân nhắc, rõ ràng còn có chỗ lo lắng khó xử.
    Quan Vũ thấy mình không được xếp đặt ở vị trí quan trọng, khi đó đã trách hỏi Gia Cát Lượng: “Quan mỗ đã theo huynh trưởng chinh chiến đã rất nhiều năm chưa từng ở lại phía sau. Nay gặp đại địch, quân sư lại không giao trọng trách như vậy là có ý gì?”. Nghe khẩu khí của Quan Vũ không biết là Gia Cát Lượng chỉ huy Quan Vũ hay là Quan Vũ chỉ huy Gia Cát Lượng? Quan Vũ lấy việc mình là anh em kết nghĩa với Lưu Bị mà tự cho mình đặc quyền ngang với quân sư. Đợi tới khi không bắt được Tào Tháo ở Hoa Dung, phạm phải quân lệnh vẫn còn có Lưu Bị đứng ra nói đỡ. Kỳ thực chính vì ông ta biết kết quả tất là như thế mới dám tha cho Tào Tháo ở Hoa Dung.
    Nếu như Khổng Minh chấp pháp như sơn, từ việc ông ta tha cho Tào Tháo ở Hoa Dung mà trừng phạt nghiêm khắc thì sau này khi ông ta làm chủ mọi việc ở Kinh Châu có lẽ đã không dám tự mình quyết định mọi việc mà chẳng biết trời cao đất dày là gì. Chính vì sự bao che của Lưu Bị, Gia Cát Lượng cũng không thể không nhân nhượng, vì thế không thể trách mình, càng không thể trách người.
    Xem ra, Gia Cát Lượng là một phần tử trí thức cũng có chỗ nhu nhược không thuốc nào chữa được. Gia Cát Lượng đối với vị tướng quân quyền cao hơn người, lại có hậu đài chắc chắn, trong lòng không hề phục mình cũng là một vị Hán đình hầu xuất thân từ tầng lớp lao động ngoại từ việc cho mình có thể thay đổi đại cục, làm việc vô nguyên tắc vẫn nghĩ rằng ông ta vẫn có thể làm được điều gì đó chăng?
    Chỗ khó xử của loại vô nguyên tắc này từ cổ chí kim há chẳng phải là chỉ có một mình Gia Cát Lượng hay sao? Nhưng mà sự vô nguyên tắc nào cũng không thể tồn tại được lâu. Cuối cùng Quan Vũ đại bại tại Kinh Châu chẳng phải chính là hậu quả từ việc Khổng Minh cả nể, qua loa không triệt để trong quân lệnh hay sao?
    Tấm gương lịch sử còn sáng mãi, hậu bối chúng ta ngày nay trong việc dùng người cần phải cẩn trọng, dùng người đúng việc. Như Khổng Minh tài thao lược nhưng cuối cùng vì cả nể nên bỏ đi một tướng tài. Quan Vũ anh hùng cái thế nhưng vì áp lực thành kiến nên cuốicùng đại bại. Ngày nay, trong việc kinh doanh chúng ta có thể quá xem trọng chiến hữu mà làm cho người tài không thể dốc hết sức vì chúng ta . Lưu Bang lên ngôi Hàn Tín phải chết, Minh Thái Tổ vững vàng thì Lưu Bá Ôn phải về trời đạo lí này ngàn xưa còn mãi . Hậu thế có thể trách Hán Cao Tổ vong ân nhưng không như thế thì làm sao có thể tồn tại được vương triều nhà Hán thịnh trị mấy trăm năm. Mỗi thời mỗi người, thuở hàn vi chúng ta có thể đồng cam cộng khổ nhưng thời thịnh trị dễ nảy sinh lòng dạ nọ kia. Nào mọi người, hãy bày tỏ quan điểm đi!!!!!!
  4. Khổng Minh – Gia Cát Lượng luận : Phụ nữ xấu như tách trà

    Phụ nữ xấu như tách trà. Ngồi trong sân vắng vẻ, tách trà như tâm tình của cô gái. Xuân qua thu lại, thế sự như mây … Người đời hay nói : rượu, thuốc lá, trà là ba báu vật của đàn ông. Tài nữ như thuốc lá, mĩ nữ như rượu nồng, còn phụ nữ xấu chỉ lặng lẽ như trà tỏa hương. So với hương trà man mác, vô luận khói thuốc đắng cay hay men rượu nồng nàn, đều thành dung tục. Song đời người lại say mê sự kích thích của rượu và thuốc lá, ít ai thư thái để tận hưởng vị thanh khiết của trà.
    Đúng vậy, phụ nữ xấu không lồ lộ vẻ đẹp trời ban, song tâm hồn họ thanh tao như hương trà.
    Xa lánh thế gian huyên náo mới có thể sự được sự thuần khiết của tâm hồn, mới có thể hiểu nhã thú của đời người. Phụ nữ xấu, bất kế đi làm hay ở nhà, việc gì họ làm cũng chỉn chu. Phụ nữ xấu lương thiện, biết hi sinh, không cầu báo đáp, không tranh giành, hệt như hương trà u mặc thời ẩn thời hiện.
    Song, trong khi người đời tán dương tài nữ, xun xoe mĩ nữ thì họ lại đối xử với phụ nữ xấu thật bất công. Phụ nữ xấu chan chứa thương yêu mà không một ai nhớ họ, nhưng họ cũng không để ý mà chỉ rút vào im lặng. Trong khi những người đẹp làm bao chuyện ầm ĩ, phụ nữ xấu vẫn thản nhiên giữ gìn mĩ đức. Có một điều an ủi, nhiều người đẹp khi trút lớp son phấn ra, họ xấu hổ không còn dám đứng trước phụ nữ xấu.
    Phụ nữ xấu yêu ai, người đó sẽ là người tình trong mộng. Họ khiêm nhường như tách trà. Một là gió nhẹ thổi qua, mặt tách trà gợn song, chờ đợi người tới thưởng thức. mà người thưởng thức trà sẽ có được một đời hạnh phúc.
  5. Minh hô Công Cẩn, bất hạnh qua đời
    Nghe được tin dữ, từng đoạn ca trường
    Dẫn quân tiền kiếp, giang hà ngừng trệ
    Dẫn quân tiền kiếp, tiên nguyệt vô oa
    Quân như hữu linh, nghe ta khóc than
    Quân như hữu linh, hãy cùng cạn chén

    Quân tấu học vị, giao hà phù khai
    San hà kiềm ai, cầm tang giang đài
    Điều quân thiếu ca, diễn cấm ba thu
    Thống lĩnh thiên quân, thảo nghịch vô ưu
    Điều quân phong độ, giai phối tiểu kiều
    Thái lệ uy mị, giải họa mưu phương

    Điều quân khí khái, đông chở nạp chất
    Sử bất trùy di, chúng lâm phong dịch
    Điều quân phán tướng, tưởng can ba
    Tuyệt hư thái tượng, như nhã độ cao trí
    Điều quân hùng tài, sách lược an bang
    Xích Bích hỏa công, lục ca cường địch

    Tuy quân ôn lưu, hùng tuy anh phát
    Khóc quân tạo tiết, lệ vương huyết tương
    Bi ai Công Cẩn, tuyệt ai Công Cẩn

    Lòng trung nghĩa, danh trì bất tuế
    Anh linh chí khí, giang đại lưu phương
    Ai buồn, tứ cùng, bi thường, vọng tuyệt
    Thảo thuyết hán đài, đại nghiệp mộng sương

    Tam quân thất soái, trời đất ảm đảm
    Minh chúa ai oán, mất đi rường cột
    Lượng đây đất bất tài, chỉ mong đồng mưu
    Trợ lực phá Tào, phổ sáng áng lưu

    Giúp đỡ lẫn nhau, đầu đuôi tương trợ
    Nếu còn sống sót, đâu còn sợ gì ( đâu còn sợ gì).
    Minh hô Công Cẩn, sanh tử vĩnh biệt
    Minh minh vô tế, thế sự nao nao
    Hồn như hữu linh , nhị giám lòng ta
    Từ nay thiên hạ, tri ân bạt phương

  6. Ngày cập nhật: 5/27/2011 10:17:00 PM
    Vào năm Kiến Hưng thứ nhất, Gia Cát Lượng sớm đã “lập phủ quản chính sự, không lâu sau, lĩnh quản Ích Châu”, từ sau đó “chính sự không phân lớn nhỏ đều thu về mối Lượng quyết cả”.
    Là Thượng Thư lệnh chỉ xếp sau Gia Cát Lượng, lại là một trong hai trọng thần được gửi gắm, Lý Nghiêm chỉ được cái danh hão Quang Lộc Huân, lại bị điều đi Giang Châu xa xôi, hậu quả thực sự của việc này đã dẫn tới việc vắng bóng hoàn toàn vai trò của Lý Nghiêm trong một chiến dịch quân sự lớn như cuộc Bắc phạt lần này.
    [IMG]
    Khong Minh co biet Luu Bi..

    Chúng ta có thể phát hiện được rằng, Gia Cát Lượng đề xuất một khi ông ta đi khỏi Thành Đô thì hậu chủ “thị trung, thị lang Quách Tu Chi, Phí Vĩ, Đổng Duẫn thảy đều dùng được, chí khí trung thuận, được tiên vương di chiếu lại phụng sự bệ hạ. Ngu thần đem những việc trong cung không phân lớn nhỏ đều nghe xét ý quần thần rồi đem thi hành tất có thể bổ khuyết chỗ bất túc , có ích lắm lắm...”, hết thảy số ấy không trừ một ai là cốt cán của tập đoàn Kinh Sở, không có bất cứ một nhân sỹ nào của Đông Châu hay Ích Châu. Đặc biệt là Lý Nghiêm, là trọng thần được gửi gắm ngang cơ Gia Cát Lượng như thế, “thống lĩnh việc quân trong ngoài”, Thượng thư lệnh đương triều vậy mà trong kế hoạch Bắc phạt đại sự liên quan tới quốc kế dân sinh này lại không hề có cơ hội lên tiếng.

    Khi Gia Cát Lượng không ở đó, theo lí mà xét cũng phải do ông chủ trì chính trị trong triều vậy mà trong biểu chương xin đi Bắc phạt, thu xếp nhân sự chủ trì công việc trong triều sau khi đi Bắc phạt của Gia Cát Lượng lại không hề nhắc một chữ nào tới Nghiêm. Dù xét từ khía cạnh nào, đây cũng là một việc không bình thường. Cái Gia Cát Lượng gọi là “thân với hiền thần” thì những nhân sỹ trong tập đoàn Kinh Sở như Quách Du Chi, Phí Vĩ, Đổng Duẫn, Hướng Sủng … tuy quả là hiền thần thực nhưng nói đi thì nói lại, Lý Nghiêm, Phí Quan, Hà Tông, Vương Mưu (6)… chẳng lẽ không phải là hiền thần hay sao. Hơn thế họ cũng không là đại thần được gửi gắm thì cũng là đại thần phẩm cấp cửu khanh, chỉ xét về thứ bậc thôi cũng đã cao hơn nhiều những vị thị trung, thị lang. Không nêu ra họ nói tình nói lý gì cũng chẳng thông, cho nên Gia Cát Lượng làm vậy chắc chắn không phải là ngẫu nhiên.

    Trong lòng Gia Cát Lượng, ông ta trước sau gì đều đặt mình ở vị trí tối thượng, coi thường người khác, luôn cho rằng Thục Hán đến khi ông ta “ngày không còn thân này nữa thì khó lòng bước tới Trung Nguyên, tranh hùng cùng nước lớn” (7). Cũng có lý do để tin rằng ông ta nắm rất rõ mục đích của Lưu Bị xếp Lý Nghiêm cùng ông ta phò tá Lưu Thiền là để lợi dụng Lý Nghiêm mà chế ước ông ta. Do vậy, để đảo bảm sự thao túng của ông ta trong chính quyền Thục Hán, ông ta quyết không cho phép người có thể uy hiếp mình về mặt chính trị như Lý Nghiêm bước vào trung tâm quyền lực và nắm thực quyền quân sự. Đó là vì sao ngoài việc ông ta luôn ngăn trở Lý Nghiêm vào Thành Đô, ông ta đã sớm ra tay dấn thêm một bước nữa làm giảm thực quyền của Lý Nghiêm trước khi Bắc phạt.
    Như trên tôi đã nói, trước Bắc phạt, Gia Cát Lượng không có cơ hội thi triển tài trí quân sự của mình mà chỉ mãi gắn với tài hoa trong chính trị và ngoại giao. Cuộc nam chinh vừa kết thúc, do đối thủ chỉ được coi là những dân tộc thiểu số man di nên cũng khôg mang lại cho ông ta nhiều tăm tiếng về quân sự. Sau khi ông ta phát động Bắc phạt, phản ứng của nước Nguỵ “coi ở nước Thục chỉ có Lưu Bị. Bị đã chết, bao nhiêu năm chẳng có động tĩnh gì, chẳng có gì là lạ” cũng đã cho thấy về cơ bản Tào Nguỵ không coi ông ta là một đối thủ quân sự đáng để lưu tâm. Do vậy Gia Cát Lượng phát động Bắc phạt, dù cố nhiên xuất phát từ yêu cầu chiến lược của chính quyền Thục Hán. Nhưng phải đối mặt với đối thủ như Lý Nghiêm giàu tài thao lược quân sự, lại là một trong hai trọng thần được gửi gắm, đối mặt cả với những thế lực chính trị không tâm phục khẩu phục ông ta, thì việc Bắc phạt còn là một nhu cầu quyết liệt về chính trị của cá nhân Gia Cát.
    Trước Bắc phạt, Gia Cát Lượng từng lấy lý do sau khi Bắc phạt Hán Trung sẽ xuất hiện khoảng trống lực lượng quân sự mà đòi Lý Nghiêm phải điều đội quân đồn trú ở Giang Châu về Hán Trung. Giả dụ Lý Nghiêm quả có đi Hán Trung, rõ ràng quân đội của ông sẽ bị trưng tập, trở thành một nhánh trong đội quân Bắc phạt do Gia Cát Lượng thống soái, ông cũng sẽ trở thành một tướng lĩnh dưới trướng Gia Cát Lượng. Vậy thì những tư cách của vị đại thần được gửi gắm, được Lưu Bị phong cho “thống lĩnh việc quân trong ngoài”, ngang hàng với Gia Cát sẽ bị xoá bỏ triệt để hết mọi địa vị và thực lực trong đối trọng với Gia Cát Lượng. Lý Nghiêm hiểu rõ hậu quả này hơn ai hết nên đã tìm mọi lý do cự tuyệt yêu cầu của Gia Cát Lượng. Về phần mình, trong việc xử lý vấn đề này, Gia Cát Lượng tỏ ra không đủ mạnh để cưỡng theo ý mình được. Bởi Giang Châu là trấn ở tuyến hai khu tiếp giáp giữa vùng Đông Thục Hán với Đông Ngô, Tào Nguỵ, quan trọng không kém vị trí của Hán Trung đối diện với thế lực của Tào Nguỵ phía Bắc, trong chuyện này, Gia Cát Lượng không có cách nào làm người khác tâm phục được, nhất định đòi bám riết lấy lý do đòi Lý Nghiêm và quân ở Giang Châu điều về Hán Trung.

    Quá thừa kinh nghiệm chính trị, Lý Nghiêm lúc ấy không những cự tuyệt yêu cầu này của Gia Cát mà còn nhân dịp ấy phản kích lại. Ông thừa thế đòi gom 5 quận ở tuyến phía đông của Thục Hán là Ba, Ba Đông, Ba Tây, Bồi Lăng lại thành Ba Châu, giao cho ông làm Thứ sử.
    Vào năm Kiến Hưng thứ nhất, Gia Cát Lượng sớm đã “lập phủ quản chính sự, không lâu sau, lĩnh quản Ích Châu”, từ sau đó “chính sự không phân lớn nhỏ đều thu về mối Lượng quyết cả”. Là Thượng Thư lệnh chỉ xếp sau Gia Cát Lượng, lại là một trong hai trọng thần được gửi gắm, Lý Nghiêm chỉ được cái danh hão Quang Lộc Huân, lại bị điều đi Giang Châu xa xôi, hậu quả thực sự của việc này đã dẫn tới việc vắng bóng hoàn toàn vai trò của Lý Nghiêm trong một chiến dịch quân sự lớn như cuộc Bắc phạt lần này.

    Do vậy ông ta chủ ý làm vậy nhằm tỏ rõ sự bất mãn, hơn thế là đòi hỏi phải có được những lợi ích chính trị tương đương như “lĩnh quản Ích Châu” của Gia Cát Lượng, đòi phải làm Thứ sử Ba Châu. Thứ sử tức Châu mục, một khi quả tình có lập ra Ba Châu mà cho Lý Nghiêm làm Thứ sử thì đồng nghĩa với việc đặt toàn bộ vùng phía Đông Thục Hán vào phạm vi thế lực của Lý Nghiêm. Là một Thượng Thư lệnh, Lý Nghiêm lúc ấy sẽ ngang hàng phải lối với thừa tướng kiêm lĩnh lộc Ích Châu Gia Cát Lượng. Yêu cầu này của ông chiếu theo thân phận lúc bấy giờ cùng địa vị của ông trong chính quyền Thục Hán phải nói là rất xứng hợp, không có gì quá đáng cả. Chỉ có điều xét về phía Gia Cát Lượng thì không thể cho phép chuyện ấy diễn ra được. Có điều ông ta cũng không có cách nào nắm được Lý Nghiêm, chỉ đành làm lơ việc ấy không quyết, cũng không nhắc tới việc đòi Lý Nghiêm và quân của ông về Hán Trung. (8)

    Lần đầu tiên dám phản bác lại việc người ta chèn ép mình, Lý Nghiêm đã để lộ tiếng nói công khai không hoà hợp lần đầu tiên giữa hai trọng thần của triều Thục Hán, điều này cũng khiến Gia Cát Lượng ý thức được địa vị của mình trong triều bị uy hiếp, thế lực của tập đoàn Đông Châu, Ích Châu là không thể xem nhẹ. Vậy nên Gia Cát Lượng trong “Xuất sư biểu” mới nêu một loạt những động thái thâm thuý khiến người ta phải nghiền ngẫm làm vậy, lại thêm những điều nói với Lưu Thiền như: “Thị trung, thị lang Quách Tu Chi, Phí Vĩ, Đổng Duẫn thảy đều dùng được, chí khí trung thuận, được tiên vương di chiếu lại phụng sự bệ hạ. Ngu thần đem những việc trong cung không phân lớn nhỏ đều nghe xét ý quần thần rồi đem thi hành tất có thể bổ khuyết chỗ bất túc , có ích lắm lắm.... Thân hiền thần, xa tiểu nhân, ấy là cách Tiên Hán hưng vượng; thân tiểu nhân, xa hiền thần, ấy là cách Hậu Hán khuynh đảo. Ngày Tiên vương còn, mỗi lần cùng thần luận bàn tới việc này đều không đừng được căm hận Hằng Đế, Linh Đế. Thị trung, Thượng thư, Trưởng sử, Tham quân, những đại thần tiết tháo trung trinh này xin bệ hạ gần với họ tin lấy họ thì nhà Hán hưng vượng chỉ còn tính theo ngày mà thôi”. Câu nói này có mục đích và định hướng rõ ràng, chính là để có cách giải thích hợp lý, đồng thời qua đó cũng thể hiện sự đấu tranh trong nội bộ chính quyền Thục Hán đã bước vào giai đoạn quyết liệt.


    Mùa xuân năm Kiến Hưng thứ 6, Cuộc Bắc phạt mà Gia Cát Lượng đã dày công hoạc định bao lâu nay cũng đã bắt đầu. Nhưng bởi tướng tiên phong Mã Tốc do Gia Cát Lượng đích thân chỉ định thiếu kinh nghiệm thực chiến trầm trọng nên chỉ vài đạo quân của đại quân “biết quyền biến, thiện chiến dạn dày, liệu địa hình chiến cuộc không gì không tỏ, từ Gia Cát trở đi đều phải e dè” (9) do một trong năm đại danh tướng của Tào Nguỵ là Trương Cáp đã dễ dàng đánh bại suốt một dải Nhai Đình, dẫn tới cuộc Bắc phạt lần đầu do Gia Cát vạch nên không chỉ thảm bại quay về không chút vinh quang thắng lợi mà còn gây nên những tổn thất nhất định.
    Mã Tốc đại tướng tiên phong do đích thân Gia Cát Lượng phong lúc bấy giờ không giống như chuyện lưu truyền rộng rãi là đi tìm Gia Cát Lượng thỉnh tội mà sau khi thất bại trở về chọn cách sợ tội đào tẩu, sau rồi bị bắt về quy án. Gia Cát Lượng xử tội chết rồi, còn chưa kịp thi hành đã lâm bệnh rồi chết trong ngục. Mã Tốc đào tẩu còn dẫn tới việc Hướng Lang (thúc phụ Hướng Sủng), một cốt cán khác của tập đoàn Kinh Sở có quan hệ tốt với Mã Tốc do biết thông tin mà không trình báo, bị cách chức, sau rồi ưu nhàn tận những 20 năm ròng (về việc này có thể xem cuốn “Gia Cát Lượng không giết Mã Tốc”). Có thể nói thế này, lần Bắc phạt đầu thất bại khiến tập đoàn Kinh Sở cùng Gia Cát Lượng bắt đầu phải đối mặt với những vấn đề và trải nghiệm nghiêm trọng nhất kể từ sau khi Lưu Bị qua đời, khởi đầu mối nguy cơ lần này hoàn toàn là do Gia Cát Lượng quá cố chấp nhất nhất theo ý mình.
    Về việc lựa chọn người tiên phong trong lần Bắc phạt lần này, Gia Cát Lượng đã tỏ rõ mặt cố chấp ngang ngược trong tính cách của ông ta. Trước khi Lưu Bị lâm chung có thể do biết quan hệ mật thiết giữa anh em Mã thị với Gia Cát Lượng nên từng nhắc nhở Gia Cát: “Mã Tốc nói không bằng làm, không thể dùng vào việc lớn, ngươi phải giám sát chặt!”. Vậy mà Lưu Bị qua đời rồi, “Lượng lại đổi ngoắt, cho Tốc làm Tham quân, mỗi lần gọi vào bàn chính sự, suốt từ lúc trời sáng tới tận khuya”. Có thể thấy Gia Cát Lượng không coi những lời cảnh báo của Lưu Bị ra gì, nói cho nghiêm trọng thì, việc làm này thậm chí có thể nói là một hành vi “phản chủ”. Gia Cát Lượng cứ nhất nhất tự tác, bỏ không dùng những lão tướng như Nguỵ Diên, Ngô Nhất “bỏ để dùng Tốc”, có thể thấy được sẽ khiến những người ấy bất bình đến mức nào. (10).
    Nếu Bắc phạt thu được một vài chiến tích nhất định thì những vấn đề này sẽ chỉ như mây mờ khói ảo chẳng có gì quan trọng, nhưng lần Bắc phạt này lại phải thoái lui không một chiến tích, lại chịu những tổn thất khá nặng nề. Trong bối cảnh như vậy, những vấn đề này mới trở nên nghiêm trọng ngoài dự liệu.
    Trước hết, Gia Cát Lượng phải đối mặt với những chất vấn của phe có thực quyền trong quân đội gồm Nguỵ Diên, Ngô Nhất…, tại sao tiên đế đã nói rõ ràng “Mã Tốc nói không bằng làm, không thể dùng vào việc lớn, ngươi phải giám sát chặt”, ngươi đã bội phản lại ý chỉ của tiên đế, không dùng chúng ta mà còn “bỏ để dùng Tốc”. Thứ nữa tất nhiến phải kể tới những lời cật vấn của những đối thủ chính trị trong triều như Lý Nghiêm.
    Tập đoàn Đông Châu, Ích Châu tôn Lý Nghiêm làm đầu lĩnh, luôn phải chịu sự chèn ép bài trừ của tập đoàn Kinh Sở của Gia Cát Lượng. Trong cả quá trình Bắc phạt lần này, mang danh là đại thần được ký thác “thống lĩnh việc quân trong ngoài” mà Lý Nghiêm thậm chí còn không có một cơ hội nào để lên tiếng hay để trổ tài. Tuy ông không đến mức ngáng đường hay gây khó dễ cho cuộc Bắc phạt mà Gia Cát Lượng đã dày công hoạch định và chỉ huy lần này nhưng với một cơ hội hiếm có, có khả năng giúp vỗ mặt Gia Cát Lượng và tập đoàn Kinh Sở một phen như thế này, bọn họ chắc chắn không dễ gì bỏ qua mà nhất định sẽ thừa cơ để dâng tấu chương làm to chuyện.
    Đối mặt với nguy cơ chính trị nghiêm trọng như vậy, Gia Cát Lượng một mặt tự biện bạch với Hậu chủ: “Thần tài hèn chẳng xứng, liều nắm quân quyền mà điều động ba quân, không thể giúp tỏ tường ý pháp, lúc lâm sự thì sợ hãi, đến cả thành Nhai Đình làm trái thánh ý, gây nên tổn thất dù đã cố ngăn chặn, mọi tội trạng đều vì thần không cách gì đảm đương được. Thần không biết nhìn người, xét việc u minh, tứ bề tội trạng xin chỉ để người đầu lĩnh này chịu, đáng lắm đáng lắm. Xin tự giáng xuống 3 cấp để tự răn mình”. Rõ ràng ông ta cũng biết chỉ riêng những lời “không cách gì đảm đương”, “không biết nhìn người” cũng không khác gì những lời chỉ trích của Lý Nghiêm hay thậm chí của Nguỵ Diên, Ngô Nhất. Do vậy một mặt Gia Cát Lượng còn cần một người gánh hộ những thất bại của cuộc Bắc phạt do ông ta chỉ huy lần này để cho mình một cơ hội thoát thân và cơ hội ấy rõ ràng chỉ có thể đến từ Mã Tốc. Vậy là rốt cục hậu quả chỉ có thể là “lôi Tốc ra chém chết trước thiên hạ”, Gia Cát Lượng thì giáng xuống là Tả tướng quân nhưng vẫn như trước “làm việc của thừa tướng, thực quyền vẫn như trước” (11). Mã Tốc làm con dê tế thần, trở thành vật hi sinh cho cuộc đấu tranh quyền lực và chính trị lần này.
    ----------------------

    (6) “Tam quốc chí” “Thục thư” “Dương Hí truyện”: “Vươn Nguyên Thái gọi là Mưu, người Hán Gia, cử chỉ tư cách đúng mực. Thời Lưu Chương, làm thái thú Ba quận, còn lui tới Châu Đài lo việc. Tiên chủ định Ích Châu, cho lĩnh hưởng lộc, cho theo biệt giá. Tiên chủ làm Hán Trung vương, cung lão tướng Linh Lăng của Kinh Sở lên làm Thái thường, Hoàng Trụ của Nam Dương làm Quang Lộc Huân, Mưu làm Thiếu phủ. Kiến Hưng năm thứ nhất, phong tước Quan Nội Hầu, sau gọi là Thái Thường… Về sau Đại tướng quân Tưởng Uyển hỏi Trương Hưu: “tiền bối của Hán Gia có Vương Nguyên Thái, nay có ai tiếp nối?” Hưu đáp: “Như Nguyên Thái, trong đất này chẳng còn ai tiếp nối được, chẳng phải nói vùng nào xa xôi!” ý là ở đó”. Hà Nhan Anh tục là Tông, người huyện Thục Quận. Làm An Học ở Quảng Hán, giỏi việc bày bố, cùng vấn học chung một thầy với Đỗ Kinh. Thời Lưu Chương, là Thái Thú Kiến Vi. Tiên chủ định Ích Châu, nắm đất ấy, từ chức về làm chức Sát tửu (chức vị sau Tiến sỹ). Về sau dùng đồ, sấm mà khuyên tiên chủ đặt miếu hiệu. Sau ngày đăng đàn cầu lễ, dời về làm chức Đại Hồng Lô. Giữa năm Kiến Hưng thì mất”

    (7) (11) (16) “Tam quốc chí” “Thục thư” “Gia Cát Lượng truyện”
    (8) “Tam Quốc chí” “Thục thư” “Lý Nghiêm truyện”: “thần (Gia Cát Lượng lúc Bắc xuất muốn có quân của Bình (Lý Nghiêm) để trấn Hán Trung, Bình có ý bất tuân, không chịu tới, lại xin lấy ngũ quận về làm Thứ sử Ba Châu”.
    (9) “Tam quốc chí” “Nguỵ thư” “Trương Cáp truyện”
    (10) “Tam quốc chí” “Thục thư” “Mã Lương truyện”: “Thần có phần lơi lỏng nghĩ Lương Cái đã cùng Lượng kết tình huynh đệ, hoặc có thân thích gì với thừa tướng; Lượng tuổi cao, Lương theo đó mà gọi Lượng là tôn huynh. Em Lương là Tốc, tự Ấu Thường, từ Kinh Châu theo việc mà vào Thục, … Tài khí hơn người, giỏi bàn việc quân, thừa tướng Gia Cát Lượng rất lấy làm tâm đắc. Tiên chủ trước có dặn Lượng: “Mã Tốc nói giỏi hơn làm, không làm được việc lớn, ngươi phải giám sát cho chặt!”Lượng lại đổi ngoắt, cho Tốc làm Tham quân, mỗi lần gọi vào bàn chính sự, suốt từ lúc trời sáng tới tận khuya. … Năm Kiến Hưng thứ sáu, Lượng xuất quân về Kì Sơn, lúc bấy giờ có lão tướng Nguỵ Diên, Ngô Nhất ai cũng đều nói xứng làm tiên phong, nhưng Lượng bỏ qua mà dùng Tốc, thống lĩnh đại quân, giao chiến với tướng Nguỵ Trương Cáp ở Nhai Đình, bị Cáp phá tan, sỹ tốt tán loạn. Lượng không có đường tiến, đành luy quân về Hán Trung”.
    (Còn nữa)

  7. Năm Kiến An thứ 19 (năm 214), Lưu Bị tấn công Ích Châu, Mã Siêu ở Tây Lương tới đầu quân. Mã Siêu vốn là một hổ tướng có tiếng đương thời. Lưu Bị được bèn lập tức phong làm Bình Tây tướng quân, địa vị tương đương với Quan Vũ. Quan Vũ ở Kinh Châu nghe được tin cực kỳ bất mãn, lập tức viết thư cho Gia Cát Lượng “Như Siêu có thể so với ai?”. Gia Cát Lượng viết thư khéo léo đáp lại rằng: “Mạnh Khởi (Mã Siêu) tài kiêm văn vũ, dũng liệt hơn người, là hào kiệt một thời…. nhưng cũng chẳng sánh được với tướng quân…”. Quan Vũ đọc xong thư mà dương dương tự đắc.
    [IMG]
    Gia Cat Luong da muon dao..
    Năm Kiến An thứ 24 (năm 219) Lưu Bị tự xưng làm Hán Trung vương, muốn trọng dụng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân “Gia Cát Lượng bèn nói với tiên chủ: Danh vọng của Trung không thể cùng với Quan, Mã, nay lại tương vi. Mã, Trương ở gần có thể nói tường tận. Quan nay ở xa chỉ e không vui. Có nên hay chăng? Tiên chủ nói: Ta tự có cách giải thích” (Thục thư – Hoàng Trung truyện). Lưu Bị nói “Ta tự có cách giải”, thực ra chỉ là phái Ích châu tiền bộ Tư Mã Phí Thi đi trước. Tam Quốc chí - Phí Thi truyện viết: “Lưu Bị sai Thi tới phong Quan Vũ làm Tiền Tướng Quân, Vũ nghe được Hoàng Trung phong làm Hậu tướng quân bèn đại nộ mà rằng: Đại trượng phu sao có thể cùng sánh ngang với lão binh. Không chịu thụ phong”. Quan Vũ cuồng vọng tới thế, Gia Cát Lượng sao không trừng trị mà người lại còn lựa ý của Vũ để mà lấy lòng?

    Cô (ta) nay có Khổng Minh, như cá gặp nước, các người chớ nói nhiều. Vũ, Phi bèn thôi” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Có thể thấy Quan Vũ, Trương Phi vốn không đặt Gia Cát Lượng vào trong mắt mình, đối với Lưu Bị càng ngày càng thân với Gia Cát thì lòng không vui.

    Năm Kiến An thứ 13 Tào Tháo xuất quân xuống phía nam. Muốn một trận quét sạch Đông nam, Lưu Bị thân cô thế quả, lại không có chốn dung thân, tình hình ngàn cân treo sợi tóc. “Gia Cát Lượng năm đó 27 tuổi, tự dâng sách lược, thân đi sứ Tôn Quyền, cầu viện nơi Ngô hội, Quyền cũng có ý với Bị, lại them thấy Lượng kỳ nhã, càng thêm kính trọng lập tức sai ba vạn quân tới phù trợ Bị. Bị được đắc dụng cùng Vũ đế giao chiến, đại phá được quân địch, thừa thắng ruổi quân, Giang Nam được bình” (Thục thư – Gia Cát Lượng truyện). Trong trận Xích Bích, Gia Cát Lượng lập được đại công, không những củng cố lại địa vị trong tập đoàn Lưu Bị mà còn gây được uy tín. Quan Trương hai người cũng không còn dám xem thường nữa. Nhưng Quan Vũ từ sự khinh thị của quá khứ mà biến thành đố kị Gia Cát Lượng. Vương Phu Chi đối với việc này từng nói:

    Chiêu Liệt bại ở Trường Bản mà quân của Vũ toàn vẹn, Tào Tháo qua sông, mà không một tay thi thố được. Mà Gia Cát công đông sứ, Lỗ Túc tây kết, định phân bang giao hai nước, Tôn thị phá Tào. Công không ở Vũ, mà ở Lượng. Lưu Kỳ nói : Triều đình dưỡng binh ba mươi năm mà nay đại công ở tay một nho sinh. Cho nên Vũ càng kị Gia Cát và kị Túc”.

    [IMG]

    Quan Vũ và Trương Phi tính cách vốn không giống nhau “Vũ thiện đối đãi với sĩ tốt nhưng kiêu căng kinh bạc đối với sĩ đại phu, Phi thì yêu kính quân tử nhưng ghét kẻ tiểu nhân” (Thục thư – Trương Phi truyện). Trương Phi đối với những sĩ đại phu có tài năng thì mười phần kính trọng, nhưng Quan Vũ đối với sĩ đại phu thì khó chịu. Gia Cát Lượng lại là sĩ đại phu đứng đầu trong tập đoàn của Lưu Bị, đương nhiên cũng ở trong đó. Gia Cát Lượng đối với việc Quan Vũ coi thường mình cũng thực rõ ràng nhưng vì kị việc Vũ “tình như thủ túc” đối với chủ công, lại thêm rằng thời gian theo Lưu Bị so với Quan Vũ thì muộn hơn nhiều, quan chức cũng kém hơn Quan Vũ, nên không thể không khéo léo mà xử thế. Gia Cát Lượng tính toán không phải là như thế nào để trừng phạt Quan Vũ, mà là giải quyết vấn đề từ căn bản, chờ đợi thời cơ để giết Quan Vũ.
    Năm Kiến An thứ 24, Quan Vũ phát động chiến dịch Tương Phàn, tuy uy trấn Hoa Hạ, nhưng cuối cùng dẫn tới việc Kinh châu thất thủ, bản thân thì bị Tôn Quyền giết chết. Trong đó có rất nhiều điểm khiến người ta phải nghi ngờ.
    Trước và sau chiến dịch Tương Phàn, sứ giả hai nước Ngô, Ngụy qua lại không ngừng, cùng bàn mưu tấn công Quan Vũ, có thể nói là không dong trống mở cờ mà lặng lẽ phối hợp với nhau. Lưu Bị và Gia Cát Lượng đối với việc này hòa toàn không biết nên không hề ra một mệnh lệnh nào cho Quan Vũ. Điểm làm người ta nghi ngờ là, Khi Tào Tháo đem quân xuống Ma Bi, không ngừng điều khiển Vu Cấm, Bàng Đức, Từ Hoảng tới viện trợ Phàn thành, hành động quân sự lớn như thế, Thục Hán cũng không hề sử dụng bất cứ một đối sách nào. Cuối cùng Quan Vũ thất bại mà chạy ra Mạch Thành, trước cảnh toàn quân sắp bị tiêu diệt mà viện binh của Thục quân vẫn không thấy đâu. Điều này cũng là một điểm rất đáng nghi ngờ. Quốc học đại sư Chương Thái Viêm có kiến giải độc đáo rằng: “Bại ở Lâm Thư (nơi Quan Vũ bị giết) Gia Cát Lượng không lấy một tốt tới cứu viện. Kẻ ngu muội cười rằng không biết nhìn xa…

    Họ Chương luận rằng Gia Cát Lượng bởi thấy “Quan Vũ là một hổ tướng… không trừ đi tất về sau sẽ khó trị được, nên không tiếc Kinh Châu, mượn tay người Ngô, để lấy mạng của Quan Vũ”. Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu, tay nắm trọng binh, cực kiêu ngạo cuồng vọng, không những đời sau (Sau khi Lưu Bị chết) khó đối phó, mà ngay khi Lưu Bị còn sống Gia Cát Lượng cũng khó lòng vượt qua được chướng ngại Quan Vũ. Muốn nắm được đại quyền. Gia Cát Lượng tình nguyện đánh đổi Kinh Châu, mượn tay người Ngô để trừ khử Quan Vũ.

    Kiến giải này của Chương thị thực là gan lớn. Đây đương nhiên chỉ là phỏng đoán. Họ Chương đối với những lí do nêu trên cho là chưa đủ, không lâu sau lại bổ sung thêm rằng: “Việc chính ở tay tiên chủ, Vũ Hầu đương sách hoạch việc an dân, chẳng thể lĩnh hết... Bại ở Kinh châu trước ở chỗ khinh Ngô, sau ở chỗ không có viện quân, đấy cũng chính là lỗi ở tiên chủ”.
    Đem việc bại ở Kinh Châu mà nói là do Lưu Bị có lòng khinh địch, thực hơi có phần khiên cưỡng. Khi đó thực là Gia Cát Lượng không thể quản hết được việc quân chính đại quyền nhưng rõ ràng Gia Cát Lượng biết việc Quan Vũ tấn công Tương Phàn vào lúc điều kiện chưa đủ chin muồi, hoàn toàn đi ngược lại với Long Trung đối là đợi thiên hạ có biến, và sách lược hai đường cùng bắc phạt Tào Ngụy. Nhưng trong Tam Quốc Chí chính văn và cả bản chú của họ Bùi thì đều không hề thấy ghi chép Gia Cát Lượng khuyên gián.


    [IMG]

    Quan Vũ



    Hơn nữa, cho dù Lưu Bị có sủng tín, thoải mái với Quan Vũ, không coi Long Trung đối là gì. Nhưng sau khi chiến dịch Tương Phàn chiến thắng, Lưu Bị, Gia Cát Lượng không thể không toàn lực quan sát từng bước của chiến dịch. Cho dù đường đi lối lại giữa Xuyên, Ngạc có cách trở, giao thông không tiện, tin tức truyền bá khó khăn, nhưng cả chiến dịch Tương Phàn từ tháng 7 năm Kiến An thứ 24 tới tháng 12 thì kết thúc, thời gian dài gần một nửa năm. Thục Hán bây giờ là một chính quyền hoàn chỉnh, không thể thiếu những con đường truyền tin. Quan Vũ tiến công Tương Phàn, giữ Kinh Châu binh lực không đủ, lại thêm lúc này liên minh Tôn Lưu đã bị phá vỡ, “bọ ngựa bắt ve, chim sẻ ở sau”, Tôn Ngô lúc nào cũng có thể tới cướp Kinh Châu. Gia Cát Lượng là người hiểu thấu binh pháp, chẳng nhẽ cũng không biết việc này?

    Ai cũng đều biết Gia Cát Lượng một đời làm việc cẩn thận, không hề có chuyện mạo hiểm. Sao lại không nhắc nhở Lưu Bị đây? Phương Thi Minh tiên sinh trong Lưu Bị và Quan Vũ đã làm biến đổi nguyên ý của Chương Thái Viêm tiên sinh, đem “Gia Cát Lượng không trừ Quan Vũ tất đời sau khó trị được” mà đổi thành “Lưu Bị không trừ (Quan Vũ) thì đời sau khó trị được”. Cách “ghép cành” này thực không thể được. Tôi cho rằng chỉ cần Gia Cát Lượng làm đúng chức trách của một quân sư, lúc nào cũng có thể đem tình thế nguy hiểm của Kinh Châu mà nói với Lưu Bị. Lưu Bị cùng Quan Vũ tình thân như thủ túc, không thể nào chỉ có đứng nhìn việc Quan Vũ chiến bại ở Lâm Thư mà không một binh một tốt cứu viện. Cho nên người thực sự đưa Quan Vũ lên đoạn đầu đài không phải ai khác mà là chính là Gia Cát Lượng.

    Chức thừa tướng, Gia Cát Lượng là lựa chọn cuối cùng?

    Sau khi Quan Vũ chết, địa vị và quyền lực của Gia Cát Lượng được nâng cao rõ rệt nhưng vẫn chưa tới mức “trên vạn người, dưới một người”. Sau khi vào Thục, Lưu Bị tín nhiệm Pháp Chính hơn hẳn Gia Cát Lượng. Đối với điều này Gia Cát Lượng cũng rất rõ. Lưu Bị Đông Chinh “phục nỗi nhục Quan Vũ”, quần thần thay nhau khuyên gián, Lưu Bị nhất loạt đều không nghe. “Năm Chương Vũ thứ 2 đại quân thất bại, trú ở Bạch Đế, Lượng than rằng: Pháp Hiếu Trực (Pháp Chính) nếu còn, chắc có thể ngăn được chủ công Đông hành, dù có Đông hành cũng không tới nguy địa thay!” (Thục thư – Pháp Chính truyện). Đối với việc Lưu Bị phát động cuộc chiến ở Di Lăng, Gia Cát Lượng có ngăn cản hay không, bởi sử không chép nên không thể biết được. Nhưng từ lời nói trên có thể thấy được rằng Pháp Chính ở trong lòng Lưu Bị thực Gia Cát Lượng không thể bằng!
    Lưu Bị nhập Xuyên chủ yếu là nhờ công Pháp Chính, Pháp Chính không những trợ giúp Lưu Bị lấy được Ích Châu, định Hán Trung, kiến lập được công lao trác việt, lại “có thừa trí thuật, hiểu ý chủ nhân”. “Tiên chủ cùng với Tào công tranh, thế có bất lợi, nên lui, nhưng tiên chủ đại nộ mà không chịu lui, bèn không dám can gián nữa. Tên bắn như mưa, Chính bèn lên phía trước tiên chủ, tiên chủ nói rằng “Hiếu Trực che tên” Chính nói “Minh công là giường cột sao có thể giống với bọn tiểu nhân được” Tiên chủ bèn nói “Hiếu Trực, ta với ngươi cùng đi”…
    Từ đó đủ thấy Pháp Chính đối với Lưu Bị có thể nói là lấy thân tương trợ, việc việc đều thủ tín với Bị. Công phá được Thành đô Lưu Bị phong Chính là Thục quận thái thú, Dương Vũ tướng quân, ngoài giữ chốn kinh kỳ, trong làm mưu thần… Pháp Chính thân kiêm chức vụ trọng yếu ở trong ngoài, cũng chính là sự thể hiện của việc Lưu Bị cực kỳ tín nhiệm. Có người nói với Gia Cát Lượng rằng :
    Pháp Chính làm thái thú Thục quận mà tung hoàng, tướng quân nên khởi bẩm chủ nhân, giảm bớt uy khí. Lượng đáp rằng: Chủ nhân phía bắc sợ Tào Tháo thế mạnh, đông sợ Tôn Quyền bức hiếp, gần đây lại thêm việc của Tôn phu nhân, tiến thoái khó khăn, Pháp Hiếu Trực lại là người phù trợ, sao có thể ngăn được Pháp chính không làm theo ý mình được” (Thục thư – Pháp Chính truyện)
    Gia Cát Lượng phản ánh tình hình thực tế đương thời, nhưng cũng có thể thấy đây chính là Gia Cát Lượng tự trào lộng mình. Một mặt là Pháp Chính tung hoành ngang dọc không coi Gia Cát Lượng vào mắt; một mặt chính là Gia Cát Lượng đối với việc Pháp Chính tung hoành, tác uy tác phúc cũng đành bất lực.
    Pháp Chính tung hoành ngang dọc Gia Cát Lương đương nhiên không vui. Nhưng làm thế nào để làm giảm quyền thế, Gia Cát Lượng tự có sự tính toán. Lưu Bị cùng với Tào Tháo tranh đoạt Hán Trung bởi binh lực không đủ nhưng vẫn “yêu cầu phát binh, Quân sư Gia Cát Lượng bèn hỏi Dương Hồng, Hồng đáp: “Hán trung là yết hầu của Ích Châu, việc tồn vong vốn nằm ở đó, nếu không có Hán Trung ắt không có Thục, đấy cũng chính là cái họa từ cửa vào vậy. Việc như nay, đàn ông đương chiến, đàn bà làm vận lương, phát binh còn nghi ngờ gì?”. Khi đó Thục quận thái thú Pháp Chính theo tiên chủ bắc hành, Lượng trong biểu dâng muốn phong Hồng tạm giữ chức Thục quận thái thú, mọi việc đều được làm tốt thì có thể lĩnh luôn chức vụ” (Thục thư- Dương Hồng truyện).
    Hán Trung là “yết hầu của Ích Châu”, việc được mất liên quan tới sự tồn vong của chính quyền Thục Hán. Việc này chẳng nhẽ Gia Cát Lượng không hay? Đối với việc yêu cầu phát binh gấp thì chính là mệnh lệnh của Lưu Bị, sao có thể chống lại? Gia Cát Lượng hỏi Dương Hồng mục đích chỉ có một đó chính là mượn cơ hội để tiến cử Dương Hồng vào việc lo phát binh, tiện cho việc thay thế Pháp Chính làm Thục quận thái thú. Trong tình thế Pháp Chính không ở đó Lưu Bị cũng đành chấp nhận. Dương Hồng kịp thời đưa quân dội, lương thảo vật tư tới tiền tuyến là Hán Trung, nếu việc làm tốt có thể giữ nguyên chức Thục quận thái thú. Pháp Chính mất đi vị trí quan trọng là bên ngoài giữ chốn kinh kỳ, quyền thế bị giảm đi phần lớn.
    Nhưng mâu thuẫn giữa Gia Cát Lượng và Pháp Chính vẫn chưa hết. “Gia Cát Lượng và Chính, tuy tính không giống nhau nhưng lấy công mà hỗ trợ”. Cái gọi là “lấy công mà hỗ trợ” thực ra chỉ là bề mặt, nhưng “tính không giống nhau” mới là bản chất. Đối với sự thông minh tài trí của Pháp Chính, Gia Cát Lượng cũng thực sự kính phục: “Trí thuật của Chính làm Lượng cảm thấy tài lắm” (Thục thư- Pháp Chính truyện). Càng quan trọng hơn nữa Pháp Chính là người duy nhất trong đám mưu thần mà có thể nói Lưu Bị nghe được. Điểm này chính Gia Cát Lượng cũng cho là không bằng. Bởi thế nếu như Pháp Chính sống lâu ắt hẳn mâu thuẫn sẽ còn hơn nữa.
    May mắn cho Gia Cát Lượng chính là năm thứ 2 khi Lưu Bị xưng Hán Trung Vương, thì Pháp Chính bệnh mà qua đời. Khi Lưu Bị xưng đế thì Quan Vũ, Bàng Thống, Pháp Chính, Hoàng Trung đều đã mất. Trương Phi tuy nhiên là tình thủ túc với Lưu Bị nhưng dẫu sao cũng chỉ là một viên võ tướng. Mã Siêu là tướng hàng, tâm thường mang lòng phản trắc, càng không đáng tín nhiệm. Thái phó Hứa Tĩnh lại là người thanh đạm. Lưu Bị ngó trước sau, ngoài Gia Cát Lượng thì không ai có thể giao được trọng trách lớn. Từ khi tức vị liền phong Gia Cát Lượng làm Thừa tướng, sau khi Trương Phi chết lĩnh chức Tư lệ hiệu úy. Gia Cát Lượng phấn đấu mười lăm năm, cuối cùng cũng leo lên được cái ghế Thừa tướng của mình thực ra cũng chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của Lưu Bị?
  8. Lâu nay, Gia Cát Lượng vẫn được người dân khắp khu vực Đông Á nhắc tới như một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc nhưng đồng thời cũng là một thầy phong thủy, tướng số có khả năng hô phong hoán vũ, nhìn sao đoán mệnh, dự báo tương lai. Có lẽ chính vì vậy mà ngay cả với cái chết của vị quân sư họ Gia Cát này người ta cũng truyền tai nhau đủ chuyện phong thủy thần bí…
    “Xác giả” đánh lui quân Tư Mã Ý
    Năm Kiến Hưng thứ 12 nhà Thục Hán (tức năm 234), Gia Cát Lương dẫn quân Bắc phạt, đóng quân ở Ngũ Trượng Nguyên. Đó là thời điểm vào giữa mùa hạ, trời nóng bức, chiến cuộc lại không có nhiều tiến triển khiến Gia Cát Lượng rất lo lắng, ưu phiền, cứ mở miệng nói là cáu gắt, một ngày chỉ ăn được chút cơm. Chính vì vậy mà chẳng bao lâu sau, cơ thể suy kiệt nhanh chóng cuối cùng thành bệnh, nằm liệt giường trong doanh trại. Đến tháng 8, vị quân sự lỗi lạc của nhà Thục Hán nôn ra máu mà chết. Năm đó, Gia Cát Lượng mới chỉ 54 tuổi.

    Gia Cát Lượng xuống núi theo Lưu Bị năm 27 tuổi, 14 năm sau thì làm tới chức thừa tướng nước Thục, 27 năm sau thì chết vì lo lắng phiền muộn. Người ta nói rằng, tất cả những sự kiện trọng đại xảy ra trong đời Gia Cát Lượng đều liên quan tới con số 7. Đây hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Con số 7 là con số định mệnh đối với Gia Cát Lượng.


    Con trai Lưu Bị là Lưu Thiền nghe tin dữ từ tiền tuyến báo về kinh hoảng vô cùng. Vì lẽ, xưa nay, mọi việc trong triều đình nhà Thục đều trông vào một tay Gia Cát Lượng, nay Lượng vì chuyện Bắc phạt mà chết, ai sẽ là người thay Lưu Thiền lo lắng chuyện quốc gia đại sự. Vì vậy, người ta nói rằng, Lưu Thiền sau khi nghe tin là khóc lóc chạy tới nơi chôn cất của Gia Cát Lượng, tự mình chủ trì nghi lễ chôn cất còn phong cho Gia Cát Lượng là “Trung Vũ hầu”. Người đời sau vẫn gọi Gia Cát Lượng là “Gia Cát Vũ hầu” cũng là từ tước hàm này mà có.


    Sách chép, trước khi chết, Gia Cát Lượng biết rằng sau khi mình nằm xuống, quân Thục không thể là đối thủ của quân đội Ngụy dưới sự chỉ huy của Tư Mã Ý. Vì vậy, mặc dù trong tình trạng bệnh tình nguy kịch vẫn cố gắng họp mặt các tướng lĩnh dưới quyền để bố trí thật chu đáo cho việc rút quân. Các tướng trung thành của Gia Cát Lượng là Dương Nghĩa, Khương Duy theo sự sắp xếp của Gia Cát Lượng, sau khi Lượng chết không phát tang ngay mà chỉnh đốn binh mã, rút quân về Hán Trung thật thần tốc nhưng phải trật tự, không để quân Tư Mã Ý phát hiện.


    Tư Mã Ý biết chuyện quân Thục đang rút chạy, lập tức xua quân đuổi theo, quyết một phen tiêu diệt quân của Gia Cát Lượng. Dương Nghĩa ra lệnh cho binh lính rải đinh sắt trên đường rút quân để cản trở quân địch. Tư Mã Ý không phải tay vừa, ra lệnh cho hơn 2000 binh sỹ đi những đôi giày có đế làm bằng gỗ mềm chạy trước đoàn quân khiến đinh sắt do quân Thục rải trên đường găm hết vào đế giày.

    [IMG]

    Quân đội Ngụy cứ theo đoàn quân giày gỗ này thuận lợi truy đuổi quân Thục. Tuy nhiên, khi quân Ngụy đuổi tới gần, quân Thục đột nhiên dựng cờ, gõ trống giống như chuẩn bị phản kích quân Ngụy. Quân Tư Mã Ý thấy vậy không dám truy đuổi nữa. Quân Thục nhờ vậy mà an toàn rút về Hán Trung.

    Vì sao một người thông minh như Tư Mã Ý lại không dám truy đuổi quân Thục? Nguyên nhân là vì, trước khi chết, dự liệu rằng khi quân Thục rút lui, Tư Mã Ý tất sẽ đuổi theo vì vậy Gia Cát Lượng đã cho người đẽo một bức tượng của mình rồi đặt lên xe. Đến khi quân của Tư Mã Ý đuổi theo đến gần thì đẩy xe có bức tượng của mình lên phía trước. Tư Mã Ý vốn nghe phong thanh Gia Cát Lượng bị bệnh mà chết, vì thế quân Thục mới rút quân.


    Nay khi đuổi sát tới nơi lại thấy Gia Cát Lượng vẫn điềm nhiên ngồi trước xe ra trước ba quân thì sợ rằng cả cái chết lẫn việc rút quân chỉ là kế sách của Gia Cát Lượng nên không dám manh động. Tư Mã Ý quá thông minh do vậy cũng quá sức thận trọng vì thế đánh mất cơ hội tiêu diệt quân Thục. Người đời sau gọi sự kiện này là “Xác giả” Gia Cát Lượng đánh lui Tư Mã Ý.


    Quái chiêu “điểm huyệt” định phong thủy


    Là một người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý vì vậy, Gia Cát Lượng đương nhiên rất chỉn chu với việc chọn nơi chôn cất cho chính mình. Theo di nguyện của Gia Cát Lượng, sau khi chết nơi đặt mộ của mình sẽ là núi Định Quân.


    Núi Định Quân nay nằm ở phía Nam huyện Miễn, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Nó là một nhánh đâm theo hướng Tây Bắc của dãy Hệ Mỹ Thương. Vì trên đỉnh núi rất bằng phẳng, có thể đóng được cả vạn quân nên mới có tên là núi Định Quân. Một truyền thuyết khác nói rằng, khi Gia Cát Lượng dẫn quân Bắc phạt đã dùng ngọn núi này làm nơi tập Bát trận độ, luyện tập binh lính nên mới có tên là núi Định Quân.


    Vì sao Gia Cát Lượng lại chọn núi Định Quân mà không chọn chôn cất ngay tại nơi chốn hoặc mang hẳn về kinh đô nước Thục? Người ta đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Người nói Gia Cát Lượng chọn núi Định Quân là vì quan niệm khi sống thì quản lý nước Thục, khi chết thì bảo vệ nước Thục. Một thuyết khác lai nói rằng, do việc Bắc phạt thất bại nên Gia Cát Lượng không muốn đưa xác mình về chôn tại kinh đô, sợ bị Lưu Thiền trả thù. Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân thuyết phục nhất vẫn là Gia Cát Lượng đã tính toán rất kỹ về phong thủy khi lựa chọn ngọn núi Định Quân này.


    Địa hình núi Định Quân rất phức tạp, các sườn núi uốn lượn, nhấp nhô được coi là một nơi cực tốt về mặt phong thủy. Tuy nhiên, ngọn núi Định Quân thì quá lớn, vậy nếu như chỉ nói rằng chôn cất ở núi Định Quân thì các tướng lĩnh biết chôn cất Gia Cát Lượng ở đâu? Người ta nói rằng, chuyện này cũng đã được Gia Cát Lượng tính toán rất kỹ.


    Theo ghi chép, trước khi chết, nói về việc lo hậu sự của mình, Gia Cát Lượng nói với các tướng sỹ rằng, sau khi mình chết thì đem bỏ xác vào quan tài, lấy dây thừng buộc lại rồi cho quân sỹ khiêng theo đoàn quân rút về Hán Trung. Dây thừng đứt ở đâu thì lấy nơi đó làm mộ.


    Truyền thuyết kể rằng, quân sỹ theo lời dặn của Gia Cát Lượng, buộc dây thừng vào quan tài rồi khiêng theo đoàn quân rút lui về phía Hán Trung. Cứ khiêng đi như vậy một thời gian rất lâu nhưng dây vẫn không đứt. Tuy nhiên, khi tới núi Định Quân thì đột nhiên sợi dây thừng rất chắc chắn bỗng dưng đứt bật ra, quan tài rơi xuống đất. Quân sỹ vội đặt quan tài xuống rồi tìm xẻng để đào huyệt hạ quan tài xuống. Nhưng khi binh lính vừa tản ra đất tại nơi đặt quan tại bỗng sụp xuống, vừa khít lấp trọn quan tài của Gia Cát Lượng.


    Thời kỳ Tam Quốc là thời kỳ “mộ tặc” cực kỳ lộng hành. Vì vậy, ngoài việc chọn phong thủy cho ngôi mộ, việc đầu tiên cần nghiên cứu đối với các nhà phong thủy chính là làm cách nào để chống lại bọn mộ tặc này. Tào Tháo vốn là một chuyên gia trộm mộ, vì vậy cũng trở thành một người cực kỳ tài năng trong việc chống lại mộ tặc.

    [IMG]

    Nghi án về 72 ngôi mộ của Tào Tháo cho tới tận ngày nay vẫn chưa có lời giải và người ta vẫn chưa thể nào tìm thấy ngôi mộ thật của nhà chính trị lừng danh thời Tam Quốc này.

    Về mặt phong thủy, Gia Cát Lượng có lẽ không thua gì Tào Tháo vì vậy, việc chống mộ tặc của Gia Cát Lượng cũng đặc sắc không kém.


    Gia Cát Lượng khi chọn mộ cũng đã nghĩ đến việc sẽ bị Tư Mã Ý hoặc những người đời sau đào và cướp mộ vì vậy đã yêu cầu tướng lĩnh dưới quyền không chôn theo các vật tùy táng, mộ huyệt cũng không cần đào lớn, chỉ vừa đủ để đặt quan tài là được. Khu vực đặt mộ cũng không cần xây kín, cũng không trồng cây đánh dấu hay làm bất cứ thứ gì có thể bị phát hiện.


    Tuy nhiên, những người đời sau để tưởng nhớ công đức của Gia Cát Vũ Hầu đã quyết định xây dựng khu mộ cho ông, lại còn trồng cây để ghi nhớ vị trí đặt mộ. Tuy nhiên, khi quyết định làm điều này, họ cũng tính đến việc giúp ngôi mộ chống lại bọn mộ tắc.


    Vì vậy họ đã xây dựng rất nhiều ngôi mộ giả xung quanh ngôi mộ thật. Ngôi mộ mà ngay nay người ta vẫn gọi là “Mộ thật của Gia Cát Vũ Hầu” thực tế không phải là mộ thật. Nhiều người cho rằng, ngôi mộ chỉ vẻn vẹn dòng chữ “Mộ Vũ Hầu” mới là mộ thật. Vì vậy mà người Trung Quốc đến nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ: “Mộ thật thì không thật mà mộ giả lại không giả”.

    Ngôi mộ có tên là “Mộ Vũ Hầu” được đặt ở góc Tây Bắc của núi Định Quân, diện tích lên tới hơn 300 mẫu. Trên thực tế, nhiều chuyên gia lại cho rằng, ngay cả ngôi mộ có tên “Mộ Vũ Hầu” này cũng không phải là thực.


    Ngôi mộ này được coi là ngôi thật của Gia Cát Lượng chỉ mới bắt đầu từ năm 1799, do Đô đốc tỉnh Thiểm Tây là Tùng Quân khẳng định dựa trên những truyền thuyết lưu truyền trong dân địa phương thời đó. Vì vậy, có thể nói rằng cũng giống như Tào Tháo, cho tới nay người ta vẫn chưa thể xác định được mộ thật của Gia Cát Lượng nằm ở đâu.

Chia sẻ trang này